Quantcast
Channel: Phọt Phẹt
Viewing all 444 articles
Browse latest View live

TRONG TAY SẴN BÚA - ĐÂU CŨNG...THẤY ĐINH.

$
0
0


Thông não cho bọn con bò nghị viên tí chút, nhất là các đồng chí "còn đảng còn mình", trong tay sẵn búa nên nhìn đâu cũng...thấy đinh, đèo mẹ. Bài của luật sư Thái Bảo Anh. Như thông lệ, tít tôi lại rút trong quần ra khà khà...

Những ngày đầu tiên khi mới sang Hoa Kỳ học luật, trên đường đi bộ từ nhà tới trường, tôi nhận thấy là các ngôi nhà của Mỹ hầu hết không có hàng rào và các chấn song sắt kiên cố như tôi vẫn thấy ở Việt Nam. Vì biết nước Mỹ là một quốc gia có tỷ lệ tội phạm và số người ngồi tù thuộc nhóm đứng đầu thế giới, nên tôi thắc mắc nhưng không thể lý giải được điều đó. Tôi mang vấn đề này hỏi giáo sư của mình và được ông trả lời như sau: “chúng tôi thừa nhận một sự thật là cái ác đã, đang và sẽ luôn song hành với cái thiện chừng nào nhân loại còn tồn tại. Chúng tôi biết là không có một giải pháp nào có thể giải quyết được mọi mục đích đặt ra. Do đó, khi soạn luật chúng tôi xem xét các mục đích rồi xác định thứ tự ưu tiên cho các mục đích đó. Đối với vấn đề tội phạm, ưu tiên của chúng tôi là làm cho những người dân yên tâm là họ được bảo vệ và nhờ đó các nguồn lực, thay vì được dùng để biến mỗi căn nhà thành một pháo đài thì sẽ được đầu tư cho lực lượng thực thi luật pháp. Nói cách khác, chúng tôi làm luật không vì một nhóm nhỏ người xấu mà vì đa số người tốt. Sự an tâm và phát triển của những người dân sẽ mang lại nguồn lực cho việc bảo vệ pháp luật. Cái anh nhìn thấy là kết quả của triết lý lập pháp đó.”

Khi quan sát những trao đổi qua lại trên Quốc hội về quyền im lặng của những người là đối tượng của điều tra hình sự, tôi tự hỏi các đại biểu quốc hội nghĩ thế nào về (i) mục đích của quy định về quyền im lặng và (ii) thứ tự ưu tiên của các mục đích đó. Các vị đại biểu quốc hội có quân hàm tướng trong lực lượng công an thì cho rằng quyền im lặng sẽ ngăn trở việc phá án của lực lượng này. Họ cũng cho rằng với điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng và dân trí của Việt Nam hiện nay chưa phù hợp với việc quy định im lặng đó. Một vị luật sư là đại biểu khi phản bác lại thì cho rằng “quyền không khai báo các nước làm hết, còn mình lại không làm là hạ thấp quyền của người dân Việt Nam xuống.” Tôi nhận thấy các cuộc trao đổi như vậy không đề cập tới mục đích của quyền im lặng là gì và thứ tự ưu tiên nào trong các mục đích nên được áp dụng.

Quyền của một người được tự bảo vệ đối với các hoạt động tố tụng hình sự chống lại mình là một quyền cơ bản mà có lẽ không có ai trong chúng ta nghi ngờ. Quyền đó được cụ thể hoá trong các quyền khác của người bị điều tra: (i) quyền cung cấp bằng chứng để chứng minh sự vô tội của mình, (ii) quyền có luật sư và hỗ trợ về pháp lý, (iii) quyền khi ra toà được đề nghị thay đổi hội đồng xét xử khi thấy rằng hội đồng xét xử đó có định kiến sẵn với mình …. và quan trọng nhất là quyền im lặng.

Tại sao quyền im lặng lại quan trọng? Trong quá trình điều tra có sự không tương xứng giữa cơ quan điều tra và người bị điều tra. Sự bất tương xứng này thể hiện ở nhân lực, phương tiện, các thông tin được thu thập, kiến thức chuyên môn, thậm chí là cả khả năng sử dụng bạo lực của mỗi bên. Các cán bộ điều tra có các phương tiện để thu thập bằng chứng, có quyền không cho người bị điều tra biết được các thông tin mà họ đã có, có kiến thức chuyên sâu về pháp lý hình sự và kỹ thuật thẩm vấn... Ngược lại, người bị điều tra, luôn yếu thế hơn cán bộ điều tra vì trong nhiều trường hợp, họ bị giam cách ly khỏi thế giới bên ngoài, không có các kiến thức pháp lý về hình sự, và không biết liệu các kỹ thuật dẫn dụ trong hỏi cung liệu có đúng pháp luật không …

Ở giai đoạn đầu tiên ở Anh (nơi sinh ra quyền này), mục đích của quyền là nhằm ngăn chặn việc sử dụng tra tấn để cưỡng ép người bị điều tra khai báo để chống lại chính mình. Dù hiện nay nguy cơ bị tra tấn không còn hiện hữu nhiều ở các nước phương Tây thì quyền này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng như lúc ban đầu. Lý do là vì người điều tra có thể dùng nhiều kỹ thuật không công bằng để chứng minh tội của người bị điều tra. Ví dụ, việc trích dẫn một câu nói không đầy đủ, tách rời hoàn toàn khỏi ngữ cảnh nói có thể khiến câu bị trích có nghĩa ngược hoàn toàn với nguyên bản. Cách thức này đang được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống từ chính trị, ngoại giao, báo chí, đến mạng xã hội chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi điều tra hình sự. Người bị điều tra có thể chống lại việc đó bằng nhiều cách, tuy nhiên cách nào cũng đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng nhất định. Trong tất cả các cách để bảo vệ mình, im lặng tới khi có sự tham gia của luật sư là cách thức bảo vệ đơn giản nhất và có thể áp dụng cho mọi người, mọi tầng lớp dân trí, ở mọi nơi, với mọi cơ sở hạ tầng đang có. Do đó, theo quan điểm của tôi, càng ở các nước điều kiện hạ tầng và dân trí còn nhiều bất cập như Việt Nam thì quyền im lặng lại càng cần thiết vì nó là công cụ bảo vệ dễ được áp dụng nhất cho mọi người. Và thực tế đã chứng minh là quyền này được các quốc gia khác bắt đầu áp dụng từ thế kỷ 16 với điều kiện kinh tế và dân trí thấp hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều.

Vấn đề thứ hai là thứ tự ưu tiên nào cho các mục đích mà chúng ta nhắm tới khi lập pháp về vấn đề này: (i) bảo vệ người vô tội khỏi các oan sai hay (ii) tìm ra một người chịu trách nhiệm về tội ác đó. Chúng ta biết rằng một người phạm tội thì chỉ có một, nhưng những người bị tình nghi và điều tra sẽ rất nhiều. Sau khi điều tra hết những nghi can đó, chúng ta có 50% khả năng tìm ra một ai đó chịu trách nhiệm. Nhưng không có gì là chắc chắn rằng người chịu trách nhiệm đúng là người thực sự đã gây tội ác. Như vậy, chúng ta thấy rằng số người vô tội cần được bảo vệ trong một vụ điều tra hình sự lớn hơn nhiều so với kẻ phạm tội phải bị bắt. Nếu như tôi có quyền, và nếu các đại biểu Quốc hội lắng nghe lời một cử tri, tôi sẽ đặt việc bảo vệ người vô tội khỏi các oan sai lên hàng đầu.

Nói một cách khác, tôi ủng hộ việc áp dụng quyền im lặng cho những người bị điều tra vì quyền đó là công cụ đơn giản nhất mà bất kể một người nào, dù trình độ văn hoá hay địa vị xã hội ra sao, dù ở đâu và với phương tiện nghèo nàn đến mấy cũng áp dụng được. Vì sao lại như vậy? Vì tôi tin rằng số người tốt đông hơn rất nhiều những kẻ xấu và những người tốt, những người vô tội xứng đáng được luật pháp bảo vệ. Tất nhiên, quyền im lặng không bao giờ là tuyệt đối, người bị điều tra có quyền im lặng tới khi họ có được các công cụ bảo vệ khác mà pháp luật cung cấp hoặc tạo điều kiện cho họ, ví dụ như, một luật sư!

CÔNG NGHỆ ĐI SÀN

$
0
0


Tôi có anh bạn, đầu to đít to nhưng cái cần to thì...lại nhỏ. Anh là giai phố cổ, chất nghệ đầy mình, kiếm ăn bằng nghề đục đẽo vẽ vời, hàn lâm gọi là kiến trúc sư. Tôi vốn nhà quê, lại ghét phố cổ bởi một lý do lãng nhách là mỗi bận lên trển đánh đu thì tuyền bị lạc đường. Dạo gần đây, nhờ những mối lương duyên mà tôi ghé phố cổ thường hơn đâm ra cái sự tậm tịt cũng đỡ đi tý chút. Nhưng về cái phong hóa và phong vị thì tôi mù tịt nên mỗi bận nhẩn nha là hú anh làm hướng đạo. Anh chỉ dẫn tận tình lắm, từ cách ăn làm sao cho tinh cho đến cách ỉa làm sao cho hoạt bát và bác học. Anh lôi tôi hết nem nướng Tạm Thương lại ra chả cá Hàng Thùng, hôm nào bảnh chọe rủng rẻng xu hào thì lại ngồi chót vót mãi tận Metropole chiêu vang đỏ và nghe những bản tình ca trắng hay ngất ngây ở những phòng trà đặc quánh âm hưởng nhạc Jazz. Mọi nhẽ thần tình lắm.

Đận gần đây anh khoe là mới thiết kế cho ông bạn cái logo sàn nhảy. Tôi có hơi bất ngờ bởi giữa cái việc đục đẽo cần nhiều sức mạnh với cái việc tinh tế nhiều chiều sâu kia chả có mấy biện chứng lẫn liên quan. Và để thuyết phục tôi, anh hứa sẽ dẫn đến vào dịp khai trương để tận mục sở thị cái tác phẩm mà anh cho rằng có một không hai và cực kỳ kinh thiên động địa. Tôi rắp tâm xé lịch đếm ngày và... chờ đợi.



Từ từ hóng nha...

CÂY TRỒNG & VẬT NUÔI

$
0
0


Đi nhậu với một hót boi người Hà Tây ( cũ ), giờ là Hà Nội 2 tức Hà Nhì, về an tọa rồi mà cứ cười sằng sặc. Chả là hót boi hành nghề kinh doanh cây xanh nên mình vui mồm móc họng cho câu slogan, nguyên văn " vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm cũng...trồng cây". Câu này ăn cắp ý của ông Cụ, còn ông Cụ ăn cắp của ai thì có giời mới biết.

Hót boi sợ xanh mặt, bảo chế lời lãnh tụ là trọng tội và như thế chỉ có nước buôn cứt bán cho chó. Ý sau của ông Cụ là trồng người chứ cây cây cái con củ cặc.

Đành phải mô đi phê ra thành " Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm cũng... trồng cây. Và trong suốt sự nghiệp trồng cây, đôi khi vì sơ ý nên trồng thêm... cả người".

Tiên nhân thằng trồng cây rồi trồng luôn cả người nhá, há há há...


Nó đây: http://www.cayxanhhoalac.com.vn/




Mỗi bận nghe các cụ lớn mắng dân ngu và các nghị gật chê trí thấp mà hả lòng hả dạ. Địt mẹ ông Đã Tàn - Nguyễn Khắc Hiếu tài đến thế là cùng khi viết:

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên chúng nó mới làm quan.

Dân nó mà khôn, trí nó mà cao hehe thì cứ liệu cái thần hồn:)) Chúng chả chịn lồn vầu mẹt hiu hiu...




Thủa bé đi học tôi khổ vì 2 anh hùng tí hon thối tai này lắm. Một là anh Lê Văn Tám tít tận miền Nam và hai là anh Nguyễn Bá Ngọc, đồng hương. Cả một tuổi thơ chả có ước vọng đéo gì ngoài cái việc được giống như hai anh, nghĩa là thành anh hùng. Thế nên tôi phấn đấu ghê lắm, liên tục làm liên đội trưởng trong nhiều năm để được đội mũ kê-pi cầm còi chỉ huy duyệt nghi thức và hát váng cái bài đéo gì "đây Thanh hóa anh hùng và giòng sông Mã mến yêu" nhằm ca ngợi anh đồng hương. Bài bải một thời được lấy làm đội ca trứ danh, giờ không biết có còn???

Riêng anh Lê Văn Tám thì tôi ngưỡng mộ đến mức ăn cắp toàn bộ những bài kiểm tra giấy trắng mực đen chưa chấm điểm của bố mẹ để làm giấy cân cho phong trào "kế hoạch nhỏ", đổi lại được ăn một trận đòn to mà tịnh không van xin khóc lóc bao giờ. Anh hùng chưa???

Nghỉ hè, bọn trẻ con về quê chơi. Chẳng hiểu sinh hoạt cái đéo gì trong trỏng. Chúng điện thoại ra hỏi tôi thế này:
- Nguyễn Bá Ngọc là ai hả papa?
- À, một thằng bạn đồng hương bố.
- Còn Lê Văn Tám?
- Nghe đâu là anh hùng, nhưng là anh hùng thời kỳ đổi mới, con ạ.
- Bố có là anh hùng không?
- Bố là siêu anh hùng, nhưng chỉ trong đũng quần thôi.

Hãy là các anh hùng trong... đũng quần, nhế các bẹn:))

1



LẢM NHẢM VỀ VĂN HÓA & GÁI MIỀN TÂY.

$
0
0


Bài của thánh Ku Búa, tôi khuân về từ http://www.triethocduongpho.com/. Giời nóng không mặc quần nên tít...để nguyên, hehe. Vì đéo có gì để rút:))

***

Hiện tượng, nếu có thể gọi là hiện tượng, lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc đã trở thành một trào lưu trong một thập niên gần đây ở Việt Nam. Ước tính cho tới nay đã có hơn 120,000 phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan và 40,000 lấy chồng Hàn Quốc. Người Việt Nam nhờ phong trào lấy chồng chớp nhoáng này đã gần như trở thành một dân tộc thiểu số ở Đài Loan và Hàn Quốc. Tiếng Việt đã phổ biến tới độ có thể thấy được bảng hướng dẫn bằng tiếng Việt ở sân bay Đài Bắc và Incheon.

Nhưng muốn nghe hay không nghe thì có một thực tế nhạy cảm là, đại đa số những phụ nữ lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc là người Miền Tây. Điều này rất lạ. Tại sao lại là gái miền Tây? Bài viết này phân tích từ phía cạnh văn hóa vì sao đại đa số phụ nữ Việt lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc lại là con gái Miền Tây. Không phải ngẫu nhiên đâu.

Bài viết này rất nhạy cảm và sẽ đụng chạm tới lòng tự ái của rất nhiều người. Tôi thực hiện bài viết này không phải để chê bai hay soi moi bất cứ một vùng miền riêng biệt nào. Tôi chỉ muốn phân tích và giải thích hiện tượng từ phía cạnh văn hóa dựa theo kinh nghiệm cá nhân, những nhận xét của bạn bè và người thân, những nhận xét về văn hóa trong kho tàng văn học và những quan sát thực tế.


Khổng giáo và gái miền Tây.

Người Việt đã bị ảnh hưởng bởi Khổng Giáo (Nho Giáo) rất nặng. Ở các thành phố lớn thì sự cũng như tầm ảnh hưởng của Khổng Giáo đã bị hạn chế và lấn áp bởi sự hiện đại hóa của đất nước. Nhưng ở những vùng nông thôn, sự ảnh hưởng của Khổng Giáo vẫn còn rất nặng. Những giá trị của Khổng Giáo vẫn còn được truyền đạt trực tiếp và gián tiếp qua từng thế hệ. Trong bài viết này tôi sẽ không nói đến các vùng miền khác mà chỉ nói về Miền Tây.

Tôi sẽ không nói chuyên Khổng Giáo, chỉ những giá trị chính, đó là Tam Tòng Tứ Đức.

Tam tòng:
Tại gia tòng phụ: con gái ở nhà phải vâng lời cha mẹ.
Xuất giá tòng phu: con gái khi qua nhà chồng là dâu phải nghe lời chồng. Đã lấy chồng là trở thành người của nhà chồng.
Phu tử tòng tử: khi chồng chết phải đi theo.

Tứ Đức:
Công: con gái phải biết nữ công gia chánh, việc nội trợ, việc nhà. Việc đi làm kiếm tiền là việc trọng đại để con trai làm.
Dung: con gái phải biết chăm sóc hình thức bản thân, làm đẹp bản thân.
Ngôn: con gái phải ăn nói nhỏ ngọt, dịu dàng, luôn làm mềm lòng người khác.
Hạnh: con gái phải hiếu thảo, chung thủy, kính trên nhường dưới, sống phải biết vị thế của mình trong xã hội, không ăn nói lớn tiếng, luôn giữ ôn hòa.



Gái Miền Tây nổi tiếng là đảm đang, nét na đoan trang thùy mị là vậy. Họ sẵn sang hy sinh đời mình cho cha mẹ và gia đình, một đức tính hiếm thấy ở các miền khác. Nhưng cũng vì đức tính đó nên họ đã bị kìm nén sự phát triển của bản thân.

Ngay từ nhỏ, cha mẹ Miền Tây đã trực tiếp hoặc gián tiếp dạy cho con gái họ Tam Tòng Tứ Đức. Con gái trong văn hóa gia đình người Miền Tây thì phải tuyệt đối vâng lời cha mẹ. Khi lớn lên nhiệm vụ chính của họ không phải là xây dựng sự nghiệp mà là lấy chồng và sinh con đẻ cái. Con gái sinh ra là ở nhà cha mẹ, phụ mẹ việc nội trợ để con cha và anh em trai làm việc lớn.

Khi lấy chồng thì phải qua nhà chồng sống để phụng dưỡng và chăm sóc cha mẹ chồng, vì khi đã lấy chồng là con nhà chồng. Khi có thu nhập và ổn định cuộc sống thì phải báo hiếu với cha mẹ. Hàng tháng phải phụ cha mẹ chút tiền coi như tiền hiếu thảo, nếu không thì sẽ bị nói là bất hiếu. Cha mẹ nào có con cái gửi tiền về cho mình thì coi đó là một vinh dự và rất tự hào đi khoe với mọi người. Niềm tự hào lớn nhất của cha mẹ Miền Tây nếu con gái là khi con gái mình lấy được một người chồng giàu có để cả gia đình mình được ở nhờ.

Văn hóa và tư duy hưởng thụ của người Miền Tây.

So về địa lý cũng như tài nguyên môi trường, người Miền Tây có thể nói là sống sướng và dư giả nhất trong các vùng miền ở Việt Nam. Miền Bắc và Trung thì khô cằn, còn Miền Tây thì hoàn toàn ngược lại. Trời ban tặng cho Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) một vùng đất mát mẻ, trái cây dư thừa, ruộng lúa cò bay thẳng cánh.

Người Miền Tây thay vì phải làm việc cực nhọc như các vùng khác để kiếm miếng ăn, họ chỉ cần làm việc rất ít cũng có miếng ăn. Người miền Bắc và Trung thức khuya dậy sớm để làm việc nhưng không đủ ăn. Nhưng nguời Miền Tây thì thoải mái vui chơi, chỉ cần đi ra con sông là bắt được còn cá, gạo thì 1 năm chỉ cần thu hoạch 1 mùa là đủ ăn cho vài năm.

Ngày qua ngày, năm qua năm, rồi thế hệ này qua thế hệ khác, tư duy không cần làm nhiều cũng đủ ăn, làm ít cũng dư giả, không cần làm gì cũng không chết đói. Vì lương thực, tài nguyên tự nhiên và ruộng lúa quá dư thừa. Dần dần nó trở thành một nét văn hóa và tư duy hưởng thụ của người Miền Tây. Nếu bạn có dịp đi Miền Tây thì bạn sẽ thấy con người Miền Tây rất dễ thương, lúc nào cũng vui cười. Họ sống không có âu lo, họ đi bộ chậm chạp như thời gian không là vấn đề. Đó là lối sống của người Miền Tây.

Quan niệm về con gái của người Miền Tây.

Như đã nói, theo Khổng Giáo và văn hóa người Miền Tây, con gái chỉ lo việc nội trợ để cho đàn ông con trai ra ngoài làm việc lớn. Nghĩa là con gái ở nhà lo nấu cơm, đi chợ, giặt đồ, quét nhà, vì mấy chuyện đó là chuyện cho con gái. Còn việc ra ngoài xã hội đi làm kiếm tiền là nhiệm vụ của con trai. Văn hóa người Miền Tây không khuyến khích con gái phát triển hay tiến thân trong xã hội.

Con gái không cần học cao, học nhiều hay học giỏi. Vì con gái trước sau gì cũng lấy chồng rồi sinh con. Học cao học nhiều làm gì cho mắc công? Con gái nên lo làm đẹp, ăn mặc đẹp để sau này kiếm một người chồng tốt và giàu có để giúp ích cho gia đình.

Những quan niệm về tình yêu và hôn nhân của con gái Miền Tây.


Được nuôi dưỡng trong hệ tư tưởng Khổng Giáo và nền văn hóa sông nước nên con gái Miền Tây khi trưởng thành đã có những quan điểm và giá trị sống đặc trưng.
Con trai, người yêu phải có trách nhiệm với mình. Muốn yêu mình thì phải trả tiền.
Khi đi ăn hoặc đi chơi, con gái Miền Tây sẽ để cho con trai trả tiền thay họ, và họ cảm thấy rất tự hào.

Khi mối quan hệ tiến xa hơn thì trả tiền hỗ trợ hàng tháng. Con trai phải mua đồ ăn, dụng cụ, và phải sẵn lòng giúp đỡ hỗ trợ con gái về mọi mặt.
Người yêu của mình không chỉ đơn thuần là một người mình yêu, mà là một người mình và gia đình mình có thể dựa vào.

Khi mối quan hệ càng tiến xa hơn, tới giai đoạn dẫn về nhà ra mắt, thì người con trai phải lễ phép và lịch sự với gia đình cha mẹ của cô gái.

Khi tới nhà chơi phải mang quà thì cha mẹ mới tiếp đón nồng hậu. Vì trong mắt của cha mẹ Miền Tây, con gái mình sinh ra, bây giờ ai muốn cưới nó phải trả lễ nghĩa cho mình, vì đó là công lao của mình nuôi nó lớn khôn.

Cha mẹ Miền Tây sẽ soi moi con trai nhất là về của cải vật chất. Dù không nói trực tiếp nhưng họ yêu cầu người con trai phải hỗ trợ họ nếu muốn cưới con gái họ.

Trong cái nhìn của con gái Miền Tây họ coi đây là một điều hiễn nhiên, vì từ nhỏ tới lớn họ đã được dạy như vậy. Nhưng trong một xã hội hiện đại và trong thời bình đẳng giới tính, hành động đó được coi là… ăn bám.

Con gái Miền Tây xét tuyển người yêu mình dựa theo cơ sở vật chất của người đó và mức độ chịu chi. Không phải tất cả, nhưng có thể nói là đại đa số.

Người yêu trong con mắt gái Miền Tây phải là một người có đủ cơ sở vật chất để lo cho cô ấy và gia đình cô ấy. Anh ta không đơn thuần chỉ là một cá nhân, mà là chỗ dựa vật chất.

Một người con trai khi muốn cưới một cô gái Miền Tây phải có trên dưới 50-100 triệu để cho việc lễ cưới, tiền cưới, tiền phụng dưỡng gia đình vợ. Ai mà không có thì sẽ mất giá trị trong mắt cha mẹ vợ.

Người mẫu Ngọc Trinh đã có 1 câu nói kinh điển “tôi bỏ anh kia vì ta chỉ lo cho tôi mà không lo cho gia đình tôi.” Đó không đơn thuần là cách suy nghĩ cá nhân mà nét văn hóa của các cô gái Miền Tây.



Gái Miền Tây và hiện tượng lấy chồng ngoại.

Không phải ngẫu nhiên đại đa số các cô gái lấy chồng Đài Loan Hàn Quốc là gái Miền Tây đâu. Sau đây là những tố chất văn hóa khiến họ trở thành điểm đến lý tưởng cho các nhà môi giới hôn nhân.

Như đã nói, gái Miền Tây bị ảnh hưởng bởi Khổng Giáo – Tam Tòng, Tứ Đức – nên họ cam chịu chứ không phấn đấu. Vì từ nhỏ họ đã được dạy “tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu”. Khi đã lấy chồng, sống ở nhà chồng là người của bên nhà chồng. Phải ngoan và vâng lời chồng và phục vụ gia đình chồng. Nếu không sẽ bị cho là con dâu hư, nếu gia đình chồng trả về cho nhà gái thì cô gái sẽ bị coi như một sự sỉ nhục, làm mất danh dự gia đình.

Gái Miền Tây không được dạy phải đi làm tự lực để phát triển, mà chỉ làm đẹp để lớn lên lấy chồng cho cha mẹ nhờ. Nên việc gia đình thúc đẩy họ lấy chồng ngoại để được nhà chồng cung cấp tiền cưới và tiền phụng dưỡng là điều gần như tự nhiên trong văn hóa người Miền Tây. Con gái lấy chồng, nhà chồng trả tiền cho nhà gái. Trong mắt cha mẹ Miền Tây, đó là cách con gái mình báo hiếu với mình. Còn trong mắt con gái Miền Tây, đó là cách nhanh nhất để mình báo hiếu cha mẹ để trả ơn cha mẹ đã nuôi mình lớn lên.

Hầu hết các cô gái đó lớn lên trong gia đình nghèo ở các vùng nôn thôn, nên không được tiếp cận với sự hiện đại hóa của xã hội. Trong tư duy của họ, họ chỉ biết lấy chồng để lo cho gia đình. Đây là một nhận xét rất khó chấp nhận và đụng chạm tới rất nhiều người nhưng suy cho cùng, rất khó để chối bỏ.

Cha mẹ Miền Tây rất tự hào khi con mình lấy chồng giàu và gửi tiền về cho mình. Sống vào tiền trợ cấp của con gái mình không phải là gánh nặng hay điều xấu xa mà là một niềm tự hào.
Những nhận xét về văn hóa và con người Miền Tây:

Sau đây là 11 lời nhận xét về văn hóa và con người Miền Tây của những người tác giả đã nói chuyện và thảo luận. Những lời nhận xét này chỉ mang tính chất cá nhân, không đại diện cho bất cứ tổ chức nào.

”Mình đã đi về Miền Tây chơi hơn chục lần, lần nào cũng vậy, không thấy gì thay đổi. Người Miền Tây hình như không có tư duy phát triển. Sáng họ thức dậy ăn sáng, ngồi chơi tới trưa rồi ngủ trưa. Chiều mát mát hẹn bạn bè đi nhậu.”

”Ông chú mình đã 40 tuổi rồi, đã có vợ và con, nhưng đã ly dị để cưới 1 em Miền Tây 20 tuổi về làm vợ. Mình thật sự không hiểu nổi. Cô ấy biết là chú mình đã có gia đình sao vẫn tiếp tục mối quan hệ. Khi mình đi dự lễ cưới nhà gái, thì đó là một căn nhà tranh. Nhưng lần thứ 2 mình về đó chơi thì nó trở thành một căn nhà gạch khang trang. Nhà gái có 2 chiếc xe tay ga chạy. Trong khi đó chú mình phải bán đất mà không nói cho người nhà bán để làm gì. Khi cưới xong rồi thì cô gái ấy ở nhà sinh con đẻ cái, không làm gì cả. Mình không muốn đánh đồng tất cả, đây chỉ là nhận xét cá nhân.”

”Con bạn thời sinh viên sống cùng phòng ký túc xá với mình là người Miền Tây. Nó coi người yêu nó như….(hơi nhạy cảm) như cái bóp. Đi chơi thì bạn trai nó luôn trả tiền dù nó cũng đi làm có lương. Hôm bữa nó hết dầu gọi đầu, thế là nói gọi nói bóng gió với người yêu “em hết dầu gọi rồi”. Chiều hôm đó anh người yêu nó mang qua vài chay dầu gọi. Thật hết biết. Không chỉ là dầu gọi, mà còn mấy thứ đơn giản như mì gói, thẻ điện thoại có chút xíu nó cũng kêu người yêu nó mua.”

”Ở cơ quan mình bọn mình hay ra quán cà phê uống nước nói chuyện. Lần nào cũng vậy, mấy đứa con gái Miền Tây không bao giờ trả, nhường vinh dự đó cho mấy anh con trai. Ai cũng nhận lương như nhau mà tại sao họ không nhận thức được trách nhiệm cá nhân của mình chứ?”

”Có một lần mình hỏi em Miền Tây, dân thể thao đạt thành tích cao, được tuyển thẳng vô đại học nhưng không chịu đi học. Tôi hỏi tại sao thì cô ấy nói ’em không thích học anh ơi, học làm, trước sau em cũng lấy chồng.’ Cô ta không đại diện cho đại đa số con gái Miền Tây nhưng tôi đã biết quá nhiều cô gái Miền Tây như vậy. Hình như trong tư duy của họ, lấy chồng là mục đích chính cho tương lai sau này.”

”Tôi phải nói điều này, nếu bị mọi người chửi thì tôi chịu. Dân Miền Tây làm biếng kinh khủng. Đã vậy còn lại bợm nhậu. Nói về nhậu thì dân Miền Tây không có đối thủ. Thứ dân gì mà mới sáng sớm đã đi ra chợ mua mồi về nhậu.”

“Tụi con gái Miền Tây khi xét người yêu là xét cái túi tiền. Mình muốn tán phải có điện thoại mới, xe tay ga, chứ bình dân là mấy em đó cho ra rìa ngay.” – Lời của một bạn nam ở một thành phố ở Miền Tây.

”Tui không biết bà thì sao chứ không dị ứng với gái Miền Tây. Tụi nó thấy ai có tiền là cặp. Tui là con gái mà tui còn phải dị ứng.”

”Gái Miền Tây công nhận là đẹp thiệt, mà tụi nó làm biếng kinh khủng. Suốt ngày chỉ biết làm đẹp. Cua mấy em Miền Tây tốn tiền lắm. Không phải chỉ tốn tiền cho 1 mình nó mà phải tốn tiền cho gia đình nó nữa.”

”Tới nhà ăn tiệc hay đi chơi, nhất là khi về chơi nhà người yêu thì phải có quà cáp. Người ta đánh giá mình từ cái xe, vàng bạc đeo trên người cho tới công ăn việc làm. Họ thẳng thắn và soi mói quá mình chịu không được.”

Năm rồi con nhỏ kia hỏi mình: ‘chị ơi chị, chị tới nhà con Diễm chơi chị thấy sao? Nhà có có giàu không chị? Nhìn nó giống con nhà giàu. Nhà nó nhà gạch hay gì, có đầy đủ hông?” Mình im lặng một hơi rồi hỏi ‘mà em hỏi chi?’ rồi nó trả lời ‘thì em hỏi cho biết thôi, tại em thấy nó giống con nhà giàu.’

Lời kết.

Ở đâu cũng có người này người kia. Việc đánh đồng tất cả là một việc sai lầm. Trong trường hợp này, không phải người Miền Tây nào cũng lười biếng và chỉ muốn sống hưởng thụ. Bài viết này là một bài nhận xét về văn hóa. Vì văn hóa không có đúng sai, tác giả chưa bao giờ nói mình đúng. Nhưng nếu chúng ta tự nhìn nhận thì văn hóa Việt Nam, trong trường hợp này, văn hóa Miền Tây thật sự có rất nhiều điều tiêu cực và rất nhiều vấn đề.

Đâu phải ngẫu nhiên đại đa số các cô gái lấy chồng ngoại là người Miền Tây. Cũng không phải ngẫu nhiên đại đa số các cô gái làm việc trong ngành ‘nhạy cảm’ là gái Miền Tây. Vai trò văn hóa đóng một phần rất lớn và nếu chúng ta muốn phát triển thì phải thật sự can đảm nhìn vào những giá trị chúng ta lấy làm nền tảng. Và khi chúng ta thật sự nhìn nhận thì sẽ thấy văn hóa và giá trị của chúng ta có quá nhiều điều bất cập.


VĂN MIẾU & VĂN MẾU

$
0
0


Bọn lá cải và các thể loại lá ngón lại đang rùm beng lên việc phủ Vĩnh Phúc xây cái Văn Miếu hết hơn 271 tỷ bạc. Vẫn với cái thói hèn mọn gian manh tráo trở thường thấy, các bạn ấy đang dẫn dắt bần nông não dòi vào những trạng huống dở khóc dở cười. Nhà nghiên cứu cổ học độc lập Trần Quang Đức viết trên facebook:

"Chùa thờ Phật, Nhà Thờ thờ Chúa, theo lẽ đương nhiên, Văn Miếu thờ Khổng. Có người nói, chỉ nên thờ Chu Văn An và các vị Tiến sĩ khoa bảng của Việt Nam, vậy xin hỏi, Chu Văn An hay tiến sĩ Nho cử nước Việt bao đời nay có tư tưởng nào khác, siêu việt ra ngoài phạm vi tư tưởng, đạo đức của Khổng giáo, hay chỉ là những tín đồ ngoan đạo, răm rắp kính ngưỡng bậc thầy muôn đời của mình? Nếu tư tưởng đã là một, chỉ vì ông thầy là phường ngoại bang mà dập thầy thờ trò, cũng chẳng khác bỏ Thích Ca mà thờ Nhất Hạnh, bỏ Mác Lê mà thờ độc ông Hồ. Sự ấy, suy cho cùng, là một thứ tư duy nhược tiểu, bệnh hoạn!

Với thảm trạng tinh thần của quốc dân hiện nay, chưa phải lúc nghe lọt những điều tích cực từ cổ học. Chẳng cần biết tư tưởng nhân văn của Khổng, và bất cần một cái Văn Miếu mới, dù nó chỉ mang tính chất địa phương. Chỉ biết trước mắt, biển đảo bị hiếp đáp, nhà cầm quyền trong gần hai chục năm trở lại đây chưa thể hiện được sự cứng rắn, nghiêm khắc cần thiết với người đồng chí phương Bắc (mà trớ trêu thay, sự cứng rắn ấy lại nhằm vào quốc dân). Quốc dân "bó tay" với chính trị, đành phát tiết vào tư tưởng, văn hóa. Nhưng càng phát tiết, càng thể hiện sự trống rỗng và nhược tiểu; rốt cuộc chỉ biết căm ghét mù quáng.

Nói cho rốt ráo, nút thắt chính trị không được cởi, thảm trạng tinh thần này sẽ còn tồi tệ hơn nữa. Nút thắt chính trị không được cởi, đừng nói đến việc chấn hưng văn hóa, hoằng dương cổ học, đừng nói đến việc dung hội văn hóa Đông Tây. Nút thắt chính trị không được cởi, một dân tộc nhỏ sẽ chẳng có cơ hội để trở thành dân tộc lớn, và càng không có cơ hội để trở thành một nước lớn. Mãi mãi giằng xé trong một mối thù ghét bệnh hoạn! Ghét Tàu nhưng chẳng khác gì Tàu!"

Và để bọn con bò hiểu thêm về Văn Miếu, tôi dẫn về đây bài biên của anh Lê Vĩnh Huy ( Vinh huy Le) bên Trại súc vật, đặng khai thêm nhãn giới. Như thường lệ, tít tôi lại rút trong quần ra, khà khà...

***
Trước khi nói về văn miếu, xin nói về... võ miếu đã, vì hệ thống đền miếu của Trung Hoa cổ, cũng như của các chư hầu thần phục nó, chia ra hai ban, văn võ song toàn.

1/. Võ miếu:

Hệ thống cúng tế của võ miếu được hình thành vào đời Đường Huyền tôn. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 19 (722), Đường Minh Hoàng cho xây dựng "Thái công Thượng phụ miếu", chủ yếu thờ Thái công Vọng (Khương Tử Nha), phó tự là Trương Lương, với 9 vị lương tướng khác cùng phối hưởng. Nghi lễ cúng tế vũ miếu (cũng như văn miếu) được cử hành vào tiết Trọng xuân và Trọng thu hàng năm.

10 vị lương tướng phối hưởng được chia ra: tả ban là Bạch Khởi, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Lý Tĩnh, Lý Tích; hữu ban là Trương Lương, Điền Nhượng Thư, Tôn Võ, Ngô Khởi, Nhạc Nghị.

Sau đó, các đời lại được người ta lại thêm vào, danh sách võ tướng cứ thế dài ra, nào Phạm Lãi, Tôn Tẫn, Hoắc Khứ Bệnh, Mã Viện, Quản Trọng, Bành Việt, Quách Tử Nghi v.v... thành ra tới 64 người.

Sau đó, trải biến thiên của lịch sử, các đời Tống, Nguyên, Minh, danh sách thờ tự khi trồi khi sụt, vì mỗi triều đại đều muốn đưa thêm "danh tướng" của mình vào, hoặc tinh giản đi những vị không phù hợp. Đến đời Thanh thì chỉ còn thờ mỗi Quan Vũ. Rồi chiến loạn liên miên, Hoa kiều phiêu bạt tứ phương, dựng "Quan đế miếu"ở những nơi họ ngụ cư, Quan miếu chính là hình thức biến tướng của võ miếu, và nhờ đó mà giăng trải cùng khắp thiên hạ.

2/. Văn miếu:

Nếu võ miếu thờ bậc lương tướng, thì văn miếu là để thờ các vị danh nho. Khởi nguồn từ Trung Hoa, văn miếu lan truyền sang các nước Đông Nam Á, tạo nên thanh thế lớn cho Nho học.

Thành ngữ Trung Hoa có câu “Nam Khổng tử, Bắc Văn Xương”, ý nói về phong tục ở miền Bắc (Trung Hoa) thường thờ Khổng tử, miền Nam thờ Văn Xương, làm “Văn Đế”. Vì vậy, Văn miếu có hai loại: loại thờ Khổng tử, loại khác thờ Văn Xương.

a. Miếu Văn Xương:

Văn Xương đế quân, tức Thục vương Trương Dục, ngoài chức năng cai quản việc văn học và khoa cử, ông còn được xem là vị thần tống ôn, được dân gian vùng Tứ Xuyên tin tưởng là có tài phép chuyên trị ôn dịch.

Văn Xương đế quân cùng với Đại Khôi tinh quân, Châu Y tinh quân, Thuần Dương đế quân và Quan Thánh đế quân được tôn xưng "Ngũ Văn Xương", theo quan niệm cổ Trung Hoa, là một bộ các vị thần chủ trì văn học.

Miếu Văn Xương luôn có hai thư đồng câm điếc đứng hầu, tượng trưng cho thiên cơ bất khả lậu.

Kể từ Nguyên, Minh trở về sau, do biến thiên hưng vong của triều đại, quy mô việc tế tự Văn Xương cũng theo đó mà nhạt dần. Tuy nhiên, ở tỉnh Tứ Xuyên, "Văn Xương cung"ở Thất Khúc sơn, thuộc huyện Tử Hoài vẫn là một thắng cảnh cuốn hút du khách. Hàng năm, vào ngày vía Văn Xương (mùng 3 tháng 2 âm lịch), ở đây tổ chức ngày hội lớn gọi là "Hội Văn Xương", tao nhân mặc khách khắp nơi tụ về đề thơ ngâm vịnh.

Văn Xương tinh quân dù là vị thần văn học đỡ đầu khoa cử, tống trừ dịch bệnh, nhưng phạm vi ảnh hưởng không tỏa khắp, nên miếu thờ Văn Xương phải cam chịu mai một dần, để miếu Khổng tử dương danh thiên hạ, truyền bá văn minh Hoa Hạ cho khắp Trung nguyên, và lan rộng ra cả các chư hầu.

b. Miếu Khổng tử:

Khổng miếu, còn gọi Phu tử miếu, Chí thánh miếu, Tiên sư miếu, Tiên thánh miếu, Văn Tuyên vương miếu, thường gọi tắt là Văn miếu.

Đây là ngôi đền dùng để thờ Khổng tử, vị triết gia được tôn xưng "Vạn thế sư biểu".

Năm 478 tr.Cn, tức một năm sau khi Khổng tử mất, Lỗ Ai công cho xây dựng đền thờ ở quê hương ông (huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông) để tưởng nhớ. Đó là ngôi Văn miếu đầu tiên ở trung Hoa.

Đời Bắc Ngụy, năm +489, xây dựng Khổng miếu tại kinh thành (nay thuộc huyện Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây). Qua đời Đường, năm 630, Thái tôn hạ chiếu, lệnh cho khắp nơi phải xây dựng văn miếu, tôn vinh Nho học. Từ đó, văn miếu được các thể chế Trung Hoa công nhận và đặt ra quy chế thờ tự chặt chẽ trang nghiêm.

Lúc ban đầu, văn miếu chỉ thờ Chu công và Khổng tử. Sau, người ta lại thêm vào 72 môn đệ của Khổng. Cứ thế, mỗi triều đại lại thêm các danh nho vào, đến đời Trung Hoa Dân Quốc đã là 162 vị thánh hiền.

Khi Trung cộng chiếm đại lục thì Khổng tử bị hạ bệ, bởi chủ tịch Mao không thể nào chịu được nổi việc ngoài mình ra, lại còn có một vị "Tố vương" (ông vua không ngai) khác được tôn sùng.

Rồi "Cách mạng văn hóa" nổ ra, Trung Hoa rơi vào kiếp nạn 10 năm đại loạn (1966-1976), các di tích văn hóa cổ xưa đều bị phá hủy, Khổng tử bị Cộng đảng phê bình, đền miếu thờ Khổng bị trưng thu, tượng Khổng bị lật nhào. Khí thế cách mạng của Hồng vệ binh quả là có sức mạnh kinh hồn, bình địa cả giang san.

Mãi đến năm 1984, việc tế lễ Khổng tử ở Văn miếu Khúc Phụ (văn miếu đầu tiên) mới được khôi phục, và các văn miếu trên toàn đại lục mới được tôn tạo phục hồi. Và từ năm 2004, năm bắt đầu thành lập hệ thống Học viện Khổng tử, thì nghi thức tế tự Khổng tử ở các văn miếu được chính quyền đứng ra chủ trì trang trọng.

Ngoài Khúc Phụ, Sơn Đông, hiện ở trung quốc còn có rất nhiều văn miếu cổ xưa nổi tiếng, như văn miếu ở Trịnh Châu (thuộc tỉnh Hà Nam) được xây dựng vào đời Hán Minh đế (năm 58-75), Khổng miếu ở Bắc Kinh (năm 1306), văn miếu Thiên Tân (1436), văn miếu Bình Dao ở Sơn Tây (1163), văn miếu Chính Định ở Hà Bắc (1374), văn miếu Nam Kinh (1034) v.v... Các văn miếu trở thành trọng điểm di tích văn hóa của quốc gia.

3/. Văn miếu ở các nước:

- Đài Loan: Khổng miếu ở Đài Nam là văn miếu đầu tiên ở lãnh thổ này, do Trần Vĩnh Hoa dựng vào năm 1666. Vào ngày 28 tháng 9 hàng năm, nơi đây đều cử hành đại lễ, do đích thân thị trưởng làm chủ tế.

Khổng miếu ở huyện Đại Đồng, Đài Bắc, cũng là ngôi văn miếu danh tiếng. Năm 2008, tổng thống Mã Anh Cửu từng đích thân làm chủ tế trong ngày đại điển ở đây.

- Triều Tiên: Ngoại trừ Trung quốc ra, thì Triều Tiên là đất nước có nhiều văn miếu nhất. Khi còn là nước Cao Ly, ở đây đã bắt đầu kiến tạo văn miếu. Thời Triều Tiên Thái tổ Lý Thành Quế (1335-1408), nhà vua đã ban lệnh cho khắp địa phương các cấp đều phải xây văn miếu. Văn miếu Triều Tiên ngoài Khổng tử ra, còn thờ 18 vị thánh hiền của họ.

Tổng cộng Triều Tiên có 362 tòa văn miếu. Sau Đệ nhị Thế chiến, đất nước chia đôi, rất nhiều văn miếu ở Bắc triều Tiên bị chuyển đổi mục đích sử dụng; Nam Hàn vẫn bảo tồn và hoạt động tế tự cho 232 văn miếu trên phần lãnh thổ của mình.

- Nhật Bản: tại đây có các văn miếu cổ xưa như Văn miếu Nagasaki; Văn miếu Bunkyo-ku, Tokyo; Văn miếu Nagasaki.

- Indonesia: ở ngoại ô phía nam thủ đô Jakarta, một văn miếu được hoàn thành vào ngày 23 tháng 12 năm 2010, do Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono chủ trì lễ khánh thành, kêu gọi mọi người dân cùng nhau xây dựng một xã hội hài hòa hợp tác.

4/. Văn miếu ở Việt Nam:

Trong số các phiên thuộc của đế quốc Trung Hoa xưa kia, thì Việt Nam là nước chịu tác động văn hóa Trung Hoa sâu sắc nhất.

Văn miếu được kiến tạo sớm nhất ở Việt Nam, theo các thư tịch chính thức, là Văn miếu thời Lý ở kinh đô Thăng Long, xây dựng năm 1070. Sang đời Trần, năm 1397, các phủ đều phải xây dựng trường học, văn miếu cũng theo đó mà lan tỏa khắp nước.

Các văn miếu cổ nổi tiếng có Văn miếu Hà Nội, Quốc Tử giám ở cố đô Huế, Văn miếu Hội An, Hải Dương; ngoài ra, có một số văn miếu mới được xây dựng, như Văn miếu Trấn Biên (Đồng Nai), văn miếu Vĩnh Phúc...

Đối tượng và nghi thức thờ cúng của văn miếu Việt Nam được mô phỏng theo quy chế tế tự của Trung Hoa, tuy có đưa thêm các danh nho bản quốc vào thờ.

5/. Đề nghị cách tân Văn miếu: nhân dư luận đang xôn xao bàn cãi về việc thờ cúng ở Văn miếu Vĩnh Phúc mới xây dựng, tôi có vài đề nghị nhỏ.

Như đã nói ở trên, hệ thống và nghi thức thờ phụng của văn miếu, ngay ở Trung Hoa, qua các triều đại, cũng đều có biến cải thêm bớt các vị tiên hiền tùy theo nhận thức và nhu cầu của chính quyền.

Việt Nam có thể (và cũng đã từng) thêm các danh nho nước ta vào thờ trong Văn miếu, như Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Thiếp v.v..., nhưng thế vẫn chưa đủ, ta cần mạnh dạn cách tân hơn nữa, để văn miếu Việt Nam trở thành hiện tượng văn hóa - tâm linh có một không hai, độc đáo nhất thế giới.

Đã đành văn miếu là để suy tôn đạo học, suy tôn văn hóa của tiền nhân, nhưng nho giáo đã tự diễn biến, suy đồi tàn tạ. Ngày nay, Mác giáo mới là quốc giáo, chi phối toàn bộ lý tưởng, nhân sinh quan, vũ trụ quan của toàn đảng, toàn quân và toàn dân ta. Vì vậy, tôi dám đề nghị: ngôi trang trọng nhất trong văn miếu, ta nên dành cho thái tổ Các Mác.

Đã có Mác thì không thể thiếu Lê, huống chi Lê Nin là vị thánh chuyên cần cầu học, với câu danh ngôn chấn động mười phương: "Học, học nữa, học mãi", bởi vậy thành ra: cạnh đó, cũng nên có một chỗ xứng đáng cho thái tôn Lê Nin.

Ngoài ra, còn ai có thể sánh vai hai vị ấy để làm thành bộ ba Tam Thánh bất hủ, ngoài Hồ Chí Minh? Chủ tịch Hồ, với tinh hoa dân tộc bốn ngàn năm kết tụ, với tư tưởng tuyệt vời đúng đắn, chuẩn nhất trong các chuẩn, là tấm gương cho đời đời con cháu chúng ta học tập và làm theo, cho nên nhất định chủ tịch phải được thờ trong văn miếu vậy!

"Tam vị nhất thể"đã có, hàng thánh hiền được tế tự trong Tân Văn Miếu thiết nghĩ nên chia làm văn võ lưỡng ban, cho thêm phần trang nghiêm bề thế.

Võ ban bên tả điện, nhất định phải có chỗ dành để vinh danh người anh hùng làm nên chiến thắng Điện Biên rúng động địa cầu: Võ Nguyên Giáp đại tướng. Kế đó là "Lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn. Cũng nên cân nhắc thêm bớt nhiều vị tướng tài danh của nước ta nữa, nhất thời tôi chưa nhớ hết được, mong quý hải nội hải ngoại chư quân tử anh thư đóng góp thêm; tốt nhất là nên chừa vài chỗ trống để từ từ ta đưa thêm các danh tướng vào, như đại tướng Lê Quý Ngọ, Phùng Quang Thanh chẳng hạn.

Văn ban hữu điện, người đứng đầu chắc chắn phải là Lê Duẩn tổng bí thư, Tố Hữu thi hào đỉnh cao chói lọi, Đỗ Mười bồ tát đại từ đại bi đại trí đại huệ v.v...

Chẳng xây thì thôi, đã làm thì phải làm cho tới bến, chúng ta quyết cùng nhau kiến tạo một kiểu Văn Miếu văn minh, làm mẫu mực cho thế giới noi theo, đó là đại phúc cho cả dòng giống Tiên Rồng, mà toàn thể loài người cũng được hưởng sái vậy!

Nay kính.

SỐC &ĐỘC # 93

$
0
0


Cá không ăn muối cá ươn
Đem trứng chọi đá tuốt lươn Tiên Rồng.



Lai Châu là một tỉnh nghèo
Đại biểu uy tín nói leo... lộn gằm.



Bác ta không phải Bụt - đà
Tăng ni phật tử chỉ là...cháu con.



Tây cũng ủng hộ bán dưa
Có khác một tý là đưa vào lồn.



Lỗi tại thằng đánh máy thôi
Đôi khi cũng bởi thiên lôi phang nhầm.



Mãn khóa chứ chửa mãn kinh
Thế là sĩ tử bất bình lên cơn.



Hoan hô anh Vũ Đức Đam
Người săn như ống cơm lam Tam Đình.



Hôm nay giời nắng chang chang
Làm anh phải đội mũ gang lên đầu.



Không biết rước bác đi đâu
Xa xa có một đàn trâu đang bừa.







Đảng ta kể cũng đã già
Trẻ hóa một tý gọi là...hồi xuân.



Mọi khi chen lấn vỡ đầu
Nắng lên một cái là bâu vào lồng.



Em ơi hai quả tim vàng
Một căn nhà nát làm hàng, được hem?

 Mát hơn hẳn

Sử dụng công nghệ rất cao
Kỹ thuật chống nóng thuộc vào hạng ưu.



Đầu chó nhưng mình lại heo
Hệt chim anh Phẹt vửa teo hồi chiều.

1

Thằng nào bảo gái óc nho?
Thông minh hơn cả đầu to lãnh tù ( aka tụ)





Chào hai anh khách làng chơi
Việt nam ta thổi hết hơi nhị kèn ( aka hai kèn = nhị & kèn)





Các cụ dạy, trước học ăn
Sau là học nói, lăn tăn đéo gì?
Tiếc là đói quá nên khi
No lên một tí lại đi...bằng bòi.
Đũa mốc nên vẫn cố chòi
Mâm son cảnh vẻ học đòi nhố nhăng.
Bao giờ bắn súng đeo găng
Uống diệu mới bớt hung hăng, như vầy.



Trông xa tưởng diệc di cư
Lại gần tá hỏa tàn dư giống nòi.



Chị Dậu lấy phải anh Pha
Thế nên con cái đâm ra thế này.




Trông xa cứ ngỡ Ninja
Lại gần đích thị đàn bà nước Nam.



Nấu ăn phải có style
A lô cũng phải lai rai cháo hầm.



Anh đây đích thị Trương Duy
Nhất anh sao lại không nuy...cho hoành?



Lấy vợ chớ mời người yêu
Cũ đến nó phá vỡ niêu lẫn chày.



Anh đây đúng thánh ngủ ngày
Hai thiên thần cũng đang bay về giời.



Khẩu hiệu không chỉ để hô
Đôi khi để gột nên hồ...thẩm du.

***

Nguồn: nhặt trên NET.

TRỌC HÓA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NHÀ NƯỚC.

$
0
0


Bài của cư sĩ Lê Minh, tôi dẫn về từ đây http://chuaphuclam.vn/. Như thường lệ, tít lại rút trong quần ra, hã hã...

1. Hệ thống tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay đang vận hành là mô hình của hệ thống tổ chức thế tục. Theo quy định của Hiến chương hiện hành, hệ thống tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay có 3 cấp hành chính: trung ương giáo hội, tỉnh, thành hội và quận, huyện hội. Với mô hình này thì phải đáp ứng những điều kiện và yêu cầu: công cụ để thực hiện và vận hành của tổ chức hành chính đạo; có trụ sở, điều kiện cơ sở vật chất để điều hành và duy trì hành chính đạo; có con người đủ năng lực trình độ để vận hành, thực hiện công cụ với vai trò lãnh đạo, quản lý và điều hành mọi hoạt động của tổ chức.

Với những điều kiện và yêu cầu trên, các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay không thể đáp ứng được. Công cụ để thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý và điều hành của tổ chức giáo hội không có và nếu có cũng không thể áp dụng điều kiện và yêu cầu này trong tổ chức đạo. Bởi vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, đồng thời không lấy giáo quyền để chi phối mà giáo hội hoạt động Phật sự là nhằm mục đích điều hòa hợp nhất sinh hoạt đúng chính pháp, lấy tinh thần tự giác của mỗi Tăng ni, Phật tử, lấy công thưởng đức, tu nhân tích đức, khuôn thước mẫu mực để làm chỗ dựa tinh thần cho Phật tử, do đó không thể có công cụ giáo quyền để duy trì tổ chức của giáo hội, nếu có sự việc xảy ra trong Tăng ni thì tuân thủ giáo pháp và giới luật Phật chế để điều chỉnh trên tinh thần giáo dục “cứu một người phúc đẳng hà sa”.

Về trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ trung ương đến địa phương đều không có cơ sở nào là công sở chung của Giáo hội. Ngay cả Trung ương Giáo hội (đặt tại chùa Quán Sứ - Hà Nội) và (đặt tại Thiền viện Quảng Đức – thành phố Hồ Chí Minh) đều không nằm dưới sự quản trị chung của Giáo hội mà hầu hết đến nay đều bị chi phối bởi (cổ phần hóa trụ sở). Các Tỉnh, Thành hội và quận, huyện hội đều chung số phận như vậy, thậm chí liên tục phải “ban chiếu dời đô” vì tân lãnh đạo tân trụ sở.

Về con người đảm trách công tác Phật sự từ trung ương đến địa phương đều kiêm nhiệm, không có chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức và điều hành công tác hành chính đạo, luật đời không rõ, luật đạo cũng không thông, ban hành văn bản hành chính tùy tiện, không theo một trình tự về thể thức và nội dung, không bảo đảm được đúng yêu cầu của Phật sự, bên cạnh đó còn chịu sự chi phối quyền lợi cá nhân chứ không căn cứ pháp quy để xử sự các sự vụ và tình huống phát sinh trong quản lý hành chính đạo.

Rõ ràng ba vấn đề trên hiện nay trong hệ thống tổ chức Giáo hội đều không có và nếu có chỉ là hình thức, không đáp ứng đầy đủ những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay, và như vậy có thể khẳng định rằng hệ thống tổ chức Giáo hội hiện nay không phù hợp với tư cách là một tổ chức tôn giáo nói chung và Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng không ngoại lệ.

2. Hệ thống tổ chức Giáo hội hiện nay từ trung ương đến địa phương đều mới chỉ đạt đến mô hình và như là những sa bàn để trưng bày triển lãm. Lãnh đạo Giáo hội thử tư duy lại xem, 5 năm các cấp Giáo hội tổ chức đại hội một kỳ, mỗi năm một kỳ hội nghị tổng kết và một hội nghị sơ kết công tác. Mỗi kỳ đại hội, hội nghị như vậy đều có báo cáo tổng kết, báo cáo sơ kết và đề ra chương trình hoạt động Phật và nghị quyết.

Tuy nhiên, chưa có cấp Giáo hội nào ban hành văn bản để thể chế hóa, triển khai các hoạt động Phật sự cụ thể trong hệ thống tổ chức để hướng dẫn Tăng ni, Phật tử thành viên trong Giáo hội thực hiện. Mà mỗi Phật sự được tổng hợp thành báo cáo của các cấp Giáo hội đều do Tăng ni, Phật tử trụ trì và sinh hoạt tại các cơ sở tự viện tự tổ chức thực hiện (mang yếu tố tự phát).
Và mỗi kỳ đại hội, hội nghị của các cấp Giáo hội đều thực hiện “báo cáo gom công tác Phật sự” của Tăng ni, Phật tử tại các chùa đã triển khai, để trở thành báo cáo chung của Giáo hội, trung ương lấy báo cáo của tỉnh, tỉnh lấy báo cáo của huyện và huyện lấy kết quả của chùa, như thế là quan hệ một chiều và đó là nguyên nhân dẫn đến Tăng ni, Phật tử không biết đến tổ chức Giáo hội như thế nào, và ngay cả những nơi xẩy ra sự vụ tranh chấp đất đai, tài sản, tôn tạo trùng tu cơ sở tự viện, những việc làm gây mất đoàn kết liên quan đến Tăng ni, Phật tử thì Giáo hội hầu như đứng ngoài cuộc, thậm chí là không có quan điểm chính kiến rõ ràng để giải quyết thấu tình đạt lý trên cơ sở luật đời và luật đạo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thành viên của tổ chức khi bị xâm hại.

3. Từ những thực tế đó, một số vấn đề đã nảy sinh trong thời gian qua và gây bức xúc trong cộng đồng xã hội: mất đoàn kết, không hòa hợp trong nội bộ Tăng ni, Phật tử, tạo bè kết đảng là vấn đề cấp bách đáng lo ngại tổ chức Giáo hội (có chăng chỉ là hình thức, bề ngoài, bằng mặt không bằng lòng) đang là hiện tượng phổ biến trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đặc biệt mỗi dịp đại hội suy tôn, suy cử nhân sự lãnh đạo Giáo hội thì vấn đề này lại càng sâu sắc.
Một bộ phận Tăng ni chạy theo đời sống thế tục thái quá, xa rời giới luật và đời sống thiền gia, như việc chay chức, chạy quyền, mua bán bằng cấp học vị trong đạo ngoài đời, hám danh, hám lợi, tham nhũng (thông qua hình thức tâm hương cúng dường), mua sắm trang thiết bị đồ dùng cá nhân xa xỉ, hủ hóa, hành nghề mê tín dị đoan, thậm chí có người cho rằng đi tu thời nay là một nghề “ho ra bạc, khạc ra tiền”, có cả những đại gia không ngại ngần và cũng không cần phải suy nghĩ gì, sẵn sàng bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để xây cất ngôi chùa mới, rồi mời sư trụ trì để lấy lòng tin của Phật tử và khách thập phương đến lễ bái và phát tâm công đức, .…
Một bộ phận quý vị lãnh đạo trong tổ chức Giáo hội cũng đang lâm vào tình trạng công tư không rõ ràng, lạm dụng chức vụ, đố kỵ, hiềm khích với pháp lữ, đặc biệt là đối với những người có việc làm hơn mình, ban hành văn bản ngăn sông cấm chợ đối với các hoạt động hoằng pháp, hướng dẫn Phật tử tu học...

Đây là một sự thực báo động trong giới Tăng ni, Phật tử và gây bức xúc trong đời sống xã hội mà các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam chưa có hướng để giải quyết và cứ tiếp tục tình hình này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ mất lòng tin, uy tín bị giảm sút trong lòng xã hội.

XĂM NUDE.

$
0
0
Dưới đây là bộ ảnh săm nude tôi nhặt được trên mạng. Bọn con bò bơi hết vầu đơi mà rửa mắt:))


















 




NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC

$
0
0


Địt mẹ, chết cười với con Bín bần nông hehe. Xin trân trọng giới thiệu giai phẩm " Nhà động vật học" lừng danh của anh. Các bạn, bọn con bò, nom đó mà ăn ở cho phải đạo. Tôi chấm phẩy chỉnh lý lại tí ti.

***

Có dạo, tôi là lái xe lìu tìu, tiền rất không xông xênh. Tôi hay la cà quán bia hơi quen ở Tăng Bạt Hổ, giờ ở đó là quán Nhật gì đó có hàng đĩa xanh đỏ chạy lừ lừ.. 

Một hôm đang bú la-đà thì có anh bạn quen mời sang uống cùng, anh ngồi với vài bạn là tiến sĩ. Gì chứ giáo sư với tiến sĩ là tôi rất nể. Kẻ hèn này, như các bạn đã biết, chả học hành cái đéo gì. 

Có một anh nói nhiều là chuyên gia về động vật học. Anh bảo tôi há mồm vẩu, rồi phán tôi có cụ tổ là loại vượn người Ốt triền lô ti phe phe gì đó, tên Tây nên tôi quên. Túm được con nhện ở gậm bàn, anh đọc luôn 3 loại tên bằng tiếng la tinh, khiến tôi hết sức khâm phục. 

Hứng chí, các anh gọi một nồi lẩu cá chép. Quán bia nào cũng có dăm ông chép tróc vẩy bơi lừ lừ trong cái bể và luôn có xu hướng ngửa mẹ bụng ra lãn công. 

Chúng tôi chọn một con làm lẩu. Nhà hàng đánh vẩy mổ bụng cắt khúc, bày lên một cái đĩa to, dưới đệm rau mùi tầu húng chó, bê thêm cái bếp ga với cái nồi, hết nước gọi thêm, thế là xong nồi lẩu. 

Nhẽ ra mọi việc vui vẻ thì đéo sao, nhưng trong khi chờ nước lẩu sôi, tiến sĩ động vật học kia nghi nhà bếp ăn bớt, thế là anh xếp các khúc cá lại. 

Quả nhiên, con chép hơn ngắn hơn bình thường, mặc dù tôi hết sức khuyên can rằng con chép này sống ở giếng, đương nhiên ngắn hơn ở ao. Nhưng anh tiến sĩ đéo tin tôi. 

Có vẻ như con chép đã bị bớt một khúc mỏng. Anh lôi thằng bếp lên. Thằng bếp nhận sai, nó để quên đâu một khúc, cuống quít xin lỗi rồi lục khúc cá quên, ghép vào thành con chép hoàn chỉnh. Tiến sĩ chửi thàng bếp vài câu, chửi khuyến mại con chạy bàn vài câu.

Tôi tuy vô học nhưng rất tinh tế, thàng bếp con bàn mồm xin lỗi nhưng mắt đảo điên bất - phục. 

Tôi viện cớ đang uống thuốc Nam kiêng tanh. Tôi bú bia với lạc rang đậu phụ. Tôi đã được dạy từ bé là đéo ăn đồ của thàng bếp đang cáu giận. 

Nước lẩu cạn dần. Tến sĩ hét thêm nước lẩu...

Ở Việt nam, nước lẩu miễn phí, muốn nhiu cũng được. Đó là nước xương hầm. Những nơi lẩu càng rẻ thì nước càng kém chất. 

Tiến sĩ húp nước lẩu, chắt miệng chét chét khen đậm đà. Chế vào nồi lẩu sôi lục bục, anh chém thêm về tên la tinh mấy loại rau, cơ mà tôi quên mẹ mất. 

Cả bọn chén chú chén anh, chuyện ko kể nữa. Tôi cứ lạc đậu phụ tôi chơi. 

Sau tôi chơi thân với anh bếp. Anh đã bỏ quán bia, tự lập một quán mới, phát tài rất. Tôi đợt rồi ra quán anh ngồi, nhắc lại chuyện xưa, anh kể, quả nhiên thấy con chép ngon anh bớt lại khúc mỏng để ăn trưa. Bị chửi anh tức lắm.

Anh và thằng phụ bếp khạc khoảng chục bãi đờm vào chỗ nước lẩu thêm đó, một cục xanh đặc quá, anh quấy mãi đéo tan, phải vớt ra. Con chạy bàn có khuyến mại cục nào ko thì anh đéo biết. 

Tôi biết ngay mà.


Bọn tiến sĩ kia ơi, trường đại học không dạy các bạn những đòn bẩn của bần nông đâu.

GÁI PHỐ HÀNG - VỸ THANH

$
0
0


Đàn bà xứ ta sinh ra đã khổ rồi. Cái khổ gần như là định mệnh đeo đẵng theo những vết mòn của thời gian và lịch sử. Người nghèo khó khổ đã đành, người đức hạnh đoan trang cũng khổ và người giỏi giang lại...càng khổ. Cứ nhìn những giá trị của đàn bà ở những xứ sở văn minh thì xót xa cho đàn bà xứ ta lắm lắm. Hay nhìn cái cách người ta chăm sóc và yêu thương vật nuôi thú cưng thì lại càng tủi thân tợn. Nhưng thôi, đó là những chuyện bông phèng.

Tôi không dám nói chị đức hạnh đoan trang nhưng giỏi giang thời thỏa đáng. Phố chợ Đồng Xuân nhẽ là trường đại học lớn và uy tín nhất quốc gia đã đào luyện nên phẩm chất và con người chị. Vẫn những nết phố hàng truyền thống được dạy dỗ từ đời cha ông, xen vào đó là những ồn ào bán mua chợ búa, tất cả tạo ra con người chị. Mềm mỏng mà quyết liệt, đơn giản mà sâu xa, khôn ngoan mà như khờ dại, đôi khi đồng bóng nhưng lòng nhân ái rộng rãi chứa chan. Và trên hết là tuyệt đối yêu thương và tôn quý gia đình.

Tôi lấy làm lạ lắm khi ngoài xã hội - như chị nói - là chẳng biết sợ ai, ấy vậy mà ở nhà, tình yêu của chị quát to một tiếng thời run lên như cầy sấy. Nếu có dỗi hờn thời cũng kín đáo vào nhà vệ sinh khỏa nước mà dẫm chân phành phạch cho hạ nguồn cơn bởi chị sợ ồn ào và lũ trẻ mất đi nết hồn nhiên trong trẻo. Hay như việc chỉ đạo ba - bốn trăm con người nơi nhà máy, thét ra lửa đấy nhưng hễ con sai khom lưng làm ngựa thời cũng quỳ gối lẫm chẫm bò quanh.

Nghe chị kể mất cha năm lên bốn, mất mẹ thủa lên tám mà tôi ái ngại vô cùng. Nhẽ bởi cái sự mất mát quá sớm và đớn đau đó làm cho chị lúc nào cũng khao khát yêu thương. Cái chị khác người ta là thay vì thụ động ngồi một chỗ làm mặt buồn sầu cầu xin thì chị luôn là người chìa tay ra trước. Yêu người âu cũng là cái cách để chị yêu mình vậy.



Và điều làm tôi ngạc nhiên và cực kỳ phấn khích là chị thuộc rất nhiều thơ. Không phải là những bài trong giáo khoa thư nhắng nhít mà tuyền những thứ thơ của những gã thi sĩ lắm nỗi niềm. Mỗi bận mềm môi là chị hay đọc, nghe thân phận và ầng ậc những trong vắt kim lồ nơi đáy mắt. Chỉ bảo mỗi khi bất lực ở cái sự tỏ lòng là chị mượn thơ để giãi bày, với chồng con, người thân, bạn bè và cả những bóng hình trên ban thờ ảo mờ sau làn khói hương đen thơm trầm mặc. Hóa ra chị cũng từng có một thời nữ sinh lãng đãng, yêu thơ và những sương khói mơ hồ. Tôi thì chả được cái nết ấy bởi năm cuối cấp 3 có tự làm một bài thơ tặng cô bạn gái trong mộng mị hằng đêm. Nàng chẳng thèm đọc mà vo tròn vứt thẳng mặt tôi kèm theo lời điếu văn cực kỳ ai oán "bố cái thằng hâm". Từ đó tôi căm thù thơ như nhân dân căm thù giặc, ghét thơ như ghét đế quốc sài lang.

Chị coi tôi như thằng em dại, có gì ngon là để dành cho ăn. Tôi cũng coi chị như chị lớn trong nhà, cố ngoan ngoãn và không làm những điều phiền nhiễu. Biết tôi thích món giả cầy nấu chân giò lợn nên chị hay làm rồi gọi lên nhà ăn. Chị nấu khéo lắm, nước trong và đậm những vị giềng sả mắm tôm cùng những rực rỡ sắc vàng của miếng chân giò mộng mị. Ăn vào cứ tan đi trong cổ họng để rồi lại chép miệng xuýt xoa vung đũa múa thìa hùng hục xúc. Cái phép nấu ăn của người phố hàng tôi cho là tinh tế lắm, từ nhà ra ngõ cho đến những phố hè đông đúc lại qua. Chả thế mà muốn ăn ngon thời phải lên trên phố, tuy có chật chội và mất chút vệ sinh nhưng thiên hạ người ta đâu có nề hà, chửa kể các món ăn đôi chỗ còn được nhúng thêm nhiều loại gia vị mà mỗi Hà Thành mới có, đó là những "đéo địt cặc dái lồn trôn". Ý tôi đang nói đến cái đặc sản " phở mắng cháo chửi  bún quát" gia truyền và cũng là danh bất hư truyền, hiuhiu...

Thôi tôi vội đi tí việc, hẹn tối tiếp nhé. 

Mời đọc lại phần mào ở đây cho liền mạch http://www.photphet.info/2015/04/gai-pho-hang.html




SỐC &ĐỘC # 94

$
0
0


"Năm anh em như năm cái tên - cái nết ở ăn mỗi người một tính".
Hình trên minh họa lời ca
Lính xe tăng khác chó nhà, tất nhiên.



Hoan hô nhà báo cách mang ( aka mạng)
Mồm ông y hệt lộn làng ôi thiu.



Chó khôn phải ngủ chuồng khôn
Gái khôn phải biết ngửa lồn đúng nơi.



Mùa thi Lan - Điệp phân ly
Hôn nhau một phát dậy thì... cả đôi.



Chết cười với nước Việt ta
Khi phường đạo chích đều là anh em.



Gái xinh phải mướt thế này
Khoe đi kẻo hết những ngày còn xuân.



Gác chân thăm khám bệnh nhân
Bác sĩ ăn một xô phân đã đời.



Đờ - mi một cú khỏa thân
Gái ngoan ê ấp che phần... mực khô.



Trông xa rõ thật điệu đà
Trông gần thời thấy cũng là...thường thôi.



Ba cô thiếu nữ ngủ ngày
Mỗi cô một vẻ trông hay vãi lìn.



Người ta gọi đấy là nhà
Vừa mỏng vừa méo vừa là xì-tai.



Di sản mà đã to à
Sinh sản ấy mới thật là lớn lao.



Hổ mang đang thở phì phì
May không phun nọc từ bi đại đồng.



Hoan hô thày giáo Văn Như
Cương cứng chả khác thượng thư nhập triều.



Ruộng sâu trâu nái không bằng.
Tó dai một đống lằng nhằng thất kinh.



Mẹ khỏe con lại còn ngoan
Nom yêu hơn cả gái xoan chửa chồng.



Trông cây nghĩ thật buồi nguồi
Người già thì cũng khác buồi gì đâu.



Ngủ đi em mộng bình thường
Ru em có những hàng dương buội đò.



Buội đò với chị Vó Tu
Sướng thì sướng thật nhưng cu chóng cùn.



Đái đường thuộc bệnh quốc gia
Việt nam thuộc tốp rất là trên cao.



Sinh ra làm kiếp ma- nơ
Canh cho thiên hạ ngủ mơ... thái bình.

*** 

Nguồn: nhặt trên NET.



:)) Hàng sốc & độc. Cấm bình loạn hehe.

BẦY LỪA & BÓNG VĂN MINH.

$
0
0
Cô gái mở đường

Nhân việc cả Chọng bác tôi đi Mẽo, tôi bốt bài về Tàu, thế mới đau hehe. Bài được biên bởi Chung Nguyễn aka Phú lé phố cổ, một con nở đá ống bơ và ất ơ mọi nhẽ. Như thường lệ, tít tôi lại rút trông quần ra, khà khà...

***

Cách đây khoảng nửa năm, khi phong trào chống Tàu đang ở mức đỉnh của hình sin, mình đã vận dụng trí lực của bản thân để cho ra đời một thiên Phú luận mà đến giờ vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Nay nhân thời điểm cao trào của một đợt sóng bài Hoa nguy hiểm mới, mình xin mang di cảo lên cho những bạn chưa được thưởng thức có cơ hội suy ngẫm:

"Cần lao các bạn luôn ghét Tàu một cách vô cớ, điều này không hẳn xấu, tuy nhiên để nó chi phối mọi suy nghĩ, hành động là rất nguy hiểm. Quan từ dân mà ra, dân căm thù mù quáng sẽ dẫn đến quan chức cận thị về tầm nhìn chiến lược và lãnh đạo đất nước theo kiểu bần nông. Đáng sợ thay.

Cách đây vài hôm, một tờ báo ế khách với cái tên cực kỳ trí tuệ nhưng trình độ phóng viên hoàn toàn không liên quan đến tên của nó, đã ra một loạt bài phóng sự với mục đích rõ ràng, lộ liễu là đập một cơ sở kinh doanh vịt quay trên đường Trường Chinh. Ngoài việc vin vào một lý do rất mới thách thức mọi chuyên gia về vật lý đó là cơ sở này đã bơm hơi vào vịt để "tăng trọng lượng" thì còn một lý do nữa đó là nhà hàng này đã sử dụng nguyên liệu ướp vàng "có xuất xứ từ Trung Quốc". Chỉ cần mấy chữ "có xuất xứ từ Trung Quốc" thôi là đủ để gây sóng gió. Dân ta là vậy, nhiều người tuyên bố tẩy chay tất cả mọi thứ từ phía bên kia biên giới, nhưng dường như lại chưa từng lật mặt sau chiếc iPhone sành điệu đang dùng xem nó sản xuất ở đâu.

Chúng ta rỉ tai nhau nguy cơ công ty Huawei làm gián điệp ăn cắp thông tin người dùng, nhưng lại sẵn sàng khai sạch từ size quần chíp, tên người yêu cho đến quán ăn quen thuộc cho Facebook.

Chúng ta đổ lỗi mọi bệnh tật và các vấn đề về sức khỏe cho thực phẩm Tàu, nhưng lại lờ đi sự thật rằng Việt Nam là quốc gia tiêu thụ rượu bia, thuốc lá hàng đầu thế giới.

Để triệt để hơn trong việc bài Tàu, tôi gợi ý các bạn về quê gặp ông trưởng họ và hỏi mượn cuốn gia phả, gì chứ đã quét là phải quét cho bằng sạch, có phỏng?

Phần Lan là một quốc gia xinh đẹp và có nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, ngoài là quê hương của hãng điện thoại Nokia trứ danh, đất nước này có thể được coi là một bài học mẫu mực trong việc tồn tại bên cạnh một nước lớn.

Với hoàn cảnh không khác nhiều Việt Nam, đều là một nước nhỏ tách ra từ một siêu cường, nhưng thành tựu của Phần Lan sau gần 100 năm tách khỏi Đế Chế Nga, khiến đất nước Việt Nam chúng ta, sau hơn 1000 năm độc lập từ Đế Chế Trung Hoa, phải suy nghĩ.

Họ cũng đã từng giống chúng ta, từng căm thù, từng sống mái với người láng giềng khổng lồ vì những lý do không đáng, nhưng họ hơn chúng ta ở chỗ đã sớm nhận ra điều đó là sai lầm và sửa chữa. Chúng ta thì không.

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã xâm lược và gây nhiều đau thương cho nhân dân Phần Lan, vì lý do an ninh quốc gia Phần Lan đã trở thành một đồng minh của nước Đức. Nhưng họ chưa từng lấn thêm một tấc lãnh thổ nào của đối thủ mặc dù có cơ hội để làm điều đó, họ chỉ tham chiến để lấy lại vùng đất Karelia bị Liên Xô chiếm trước đó vài năm

Mặc dù sau chiến tranh, Liên Xô đã dễ dàng lấy lại vùng đất này, nhưng người Phần Lan cũng sẵn sàng gác lại tranh chấp để làm ăn với Liên Xô. Điều này đã mang lại lợi thế to lớn cho kinh tế Phần Lan trong suốt Chiến Tranh Lạnh khi giao thương Đông-Tây Châu Âu bị hạn chế. Phần Lan vui vẻ làm ăn với cả hai bên, những khu rừng bạt ngàn, tài nguyên khoáng sản vô tận của nước Nga cùng hàng hóa, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật của phương Tây đã giúp Phần Lan trở thành một quốc gia thịnh vượng mà chẳng phải đối đầu với bất kỳ ai. Có đáng học tập không?

Nhìn những giáo sư, tiến sĩ sử học của chúng ta đang cố gắng chứng minh Lưỡng Quảng, Hải Nam là của Việt Nam và lên gân tinh thần dân tộc như muốn nhắn nhủ con cháu mai sau phải lấy lại cho bằng được, mà thấy lo cho tương lai nước Việt. Một quốc gia nhỏ tỏ ra cực đoan trong đối ngoại với một nước láng giềng khổng lồ thì kết cục sẽ trở thành bãi chiến trường. Ukraine đang là ví dụ sắc nét cho điều đó.

Hãy coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một con sóng. Đừng né nó, càng không nên cố gắng đương đầu chống lại nó, mà hãy tập cách lướt trên nó.

Tin hay không tùy bạn, tương lai của đất nước, dân tộc chúng ta, phụ thuộc vào cách chúng ta "chơi" với Trung Quốc như thế nào.

Và đương nhiên, kẻ bẩn tính, cực đoan, trong bất kỳ cuộc chơi nào, sẽ không bao giờ có quà."

***

THÔNG NÃO CẦN LAO.

$
0
0


Trước hết phải nói rằng, vẽ và làm những đường cong bao giờ cũng khó hơn nhiều so với đường thẳng. Vì thế, không thằng nào - kể cả thâm và nhọ như Tàu - rỗi hơi, tự thiết kế và tự bò ra thi công những đường cong, nếu nó không có tác dụng.

Vả lại, trong thiết kế giao thông, nào là đường biển, đường sông, đường bộ, và đường sắt, thì tối ưu vẫn là đường thẳng và phẳng. Đường hàng không thì tuyến bay thẳng cũng là tuyến tối ưu.

Tối ưu ở đây gồm:
Về chi phí xây dựng, đường thẳng dĩ nhiên là đường ngắn nhất nối giữa hai điểm, vì thế khối lượng vật liệu, nhân công, xe máy sử dụng sẽ là ít hơn so với đường cong và dốc. 

Về thời gian lưu thông, dĩ nhiên sẽ giảm thiểu cho những người sử dụng phương tiện.

Về an toàn giao thông, phẳng và thẳng tất yếu an toàn hơn cong và dốc. Tại những vị trí này phải cấu tạo bán kính cong và độ dốc ngang phù hợp để khử lực ly tâm. Ngoài ra những vị trí này còn phải khống chế tốc độ của phương tiện để đảm bảo an toàn.

Dễ nhận ra rằng, đường cong và dốc luôn làm hao tổn năng lượng nhiều hơn so với đường thẳng. Vì cần thêm năng lượng để chi cho quãng đường dài hơn, rồi lại dành một phần khử lực ly tâm, phần khác thì bù cho cho việc lên dốc và xuống dốc.

Đấy là những chuyện “trẻ con cũng biết”. Dĩ nhiên, một ông dạy Sử ở đất Thần kinh là ông "giáo sư" Hà Văn Thịnh – cũng biết.

Thế mà ông Phó PMU của Bộ giao thông lại bảo là tuyến đường sắt nội đô Hà Nội nó “nhấp nhô” tại vị trí các ga là để “tiết kiệm năng lượng”. Có vẻ như ngược với cái chuyện hiển nhiên đến mức “trẻ con cũng biết”.

Cho nên, ông Thịnh "giáo sư" mới phải cất công “gọi điện hỏi các TS, PGS, chuyên gia về vật lý lý thuyết, cơ học ...”. Và, “ai cũng phản biện rằng, có rất nhiều bất cập đối với loại đường sắt nhấp nhô”.

Có vẻ ông Thịnh không tin tưởng những người có chuyên môn thuộc ngành giao thông đường sắt, nên ông “gọi điện hỏi các TS, PGS, chuyên gia về vật lý lý thuyết, cơ học”. Điều lạ là vừa mới đây thôi, ông Thịnh tỏ ra rất coi thường các ông có học vị “giáo sư” xứ ta, thông qua việc ông “đánh bài lờ”, khi thầy của ông, "giáo sư đầu ngành" Phan Huy Lê, vào thăm Đại học Huế. (Lý do, ông viết rằng, là bởi ông Lê “công nhận quá nhiều chức danh giáo sư” - nên ông ghét).


Những vị TS, PGS, chuyên gia (Không có chỗ cho các GS đâu nhé!) được ông Thịnh tham vấn có thể rất xuất sắc trong lĩnh vực mà họ được đào tạo (vật lý lý thuyết, cơ học...). Nhưng hiển nhiên là không thể đòi hỏi họ cũng phải giỏi trong các lĩnh vực khác - ví dụ như đánh phỏm chẳng hạn. Đùa tý thôi, tôi muốn nói về chuyên ngành Giao thông đường sắt.

Hơn nữa, ông Thịnh gọi điện hỏi về “loại đường sắt nhấp nhô”, nên họ trả lời là “có rất nhiều bất cập đối với loại đường sắt nhấp nhô” chứ ông Thịnh có biết đường mà hỏi về “loại đường sắt đô thị” quái đâu?!

Mà tuyến đường này là một tuyến đường sắt đô thị (cụ thể ở đây là tàu điện - metro) chứ không phải là đường sắt thông thường (railway). Nó không cần phải phi càng nhanh càng tốt như tàu SN2 từ Hà Nội vào Sài Gòn chỉ mất 2 ngày 3 đêm. Thêm một lưu ý nữa, metro dùng năng lượng điện chứ không dùng nhiên liệu, như ông Thịnh tưởng.

Tuyến đường sắt đô thị này có công năng tương tự như một tuyến xe buýt, nghĩa là nó phải có nhiều điểm dừng để đón và trả khách. Vì vậy, trên tuyến đường này, cứ khoảng mỗi km người ta đặt một ga và với vận tốc trung bình 35km/h thì thời gian đi giữa hai ga kế nhau là khoảng 1,7 phút.

Điều đó có nghĩa là, cứ chưa đầy 2 phút thì tàu lại phải phanh và sau đó phải khởi động lại. Phanh, thì năng lượng hao phí một cách vô ích vào việc tạo ra ma sát để tàu dừng và khởi động (depart) để thắng “sức ì” (quán tính) và lấy lại vận tốc từ 0km/h lên mức trung bình 35km/h là một việc tốn nhiều năng lượng. Đó là chưa xét đến chuyện đoàn tàu chưa kịp “tăng ga” thì đã phải “đạp phanh” rồi, nếu khoảng cách các ga quá ngắn thì lại càng lãng phí năng lượng (cứ thử đi xe máy vừa vặn ga vừa đạp phanh xem có hao xăng không).

Lý do là hệ số ma sát tĩnh khi tàu đứng yên lớn hơn nhiều so với hệ số ma sát động khi tàu nhúc nhích. Vì thế, bất kỳ ai đã từng đi tàu hỏa thì đều biết, có khi đoàn tàu khởi động, không tiến được, nó phải giật ngược một phát, rồi mới tiến lên. Đấy là một thủ thuật của bác tài nhằm tạo khe hở (tạm ngưng các liên kết về lực kéo) giữa các toa tàu. Động tác này giúp đầu máy chỉ phải kéo lần lượt từng toa, nói đúng hơn là “chinh phục” lực ma sát tĩnh đối với lần lượt từng toa, chứ "chinh phục" cùng lúc nguyên con thì sức kéo của đầu máy hơi nước (nhà vô địch trong các loại đầu máy, còn yếu nhất là tàu điện) cũng chịu hổng nổi.

Vì vậy, để giảm hao phí năng lượng khi dừng và nhất là khi đề pa (depart) cho các đoàn tàu, từ năm 1832, một ông người Anh là Richard Badnall (một kỹ sư đường sắt chứ không phải TS, PGS, chuyên gia về vật lý lý thuyết, cơ học đâu ạ) thuộc Công ty đường sắt Liverpool và Manchester đã được cấp bằng với việc “sáng chế” ra các điểm “nhấp nhô” ở các ga. Do trọng lực của chính đoàn tàu, khi tàu vào ga, độ dốc dương sẽ giúp tàu giảm tốc một phần. Khi ra khỏi ga, chỉ cần nhả phanh, đoàn tàu có thể vượt qua ma sát tĩnh nhờ độ dốc âm. (xem thêm ở đây ). 

Nhưng cũng có một điều cần xem xét. Là ở chỗ, do đây là gói EPC (thiết kế, cung cấp, xây dựng) từ đầu tới cuối đều do một tay anh bạn "hàng xóm"đảm nhiệm. Nên rất có thể các chỗ "nhấp nhô" là do anh ta vẽ vời (E - thiết kế) ra cho phù hợp với cái công suất bèo của cái đầu máy cũng do anh ta chuyển giao (P - cung cấp). Nhưng kể cả trong trường hợp điều đó là có thật, thì người sử dụng, là phe ta, mới thực là bên được "sướng" nhờ chuyện "nhấp nhô", chứ không phải họ. Ý tôi muốn nói chuyện ai hưởng lợi từ việc tiết kiệm điện ấy mà. Tôi cũng cho rằng tay "hàng xóm" và các quan tham của ta không thể không kiếm chác, đó là bản chất, nhưng kiếm ở đâu đó, chứ không phải ở chỗ mấy đoạn cong với cớn như thế này. (Tạm xem thử giá/km, thì thấy tuyến Cát Linh Hà Đông (nhà thầu TQ) rẻ hơn tuyến Bến Thành - Suối Tiên (nhà thầu Nhật) nên chưa có gì để nói).



Đối với metro, độ dốc dọc không được phép cao quá 3 phần trăm. Trên ảnh ta có cảm giác độ chênh cao khá lớn là do góc nhìn cố ý của người chụp. Lưu ý là độ dốc thực sẽ không quá lớn như cảm giác xem ảnh, vì khoảng cách từ đỉnh dốc đến chân dốc có vẻ trải dài qua 9 hàng cột, tương đương 240m mỗi bên. Vì vậy sẽ không có sự "mất an toàn" khi tàu qua dốc, thậm chí người ta cũng sẽ chẳng nhận ra độ dốc nếu ngồi trên tàu. (Khoảng cách giữa hai trụ tạm tính là tương đương với chiều dài dầm, với tuyến metro ở HN là 30m, và ở Tp. HCM là 35m)

Xem ảnh này thì biết khoảng cách giữa hai trụ là 30m.

Tất nhiên nếu tuyến đường này chỉ có hai ga, điểm đầu và điểm cuối, thì việc cấu tạo các đoạn "nhấp nhô"ở giữa này là vô ích. Điều này, lại phải nhắc lại, đến trẻ con cũng biết, thưa “giáo sư”.

Và cuối cùng, vì ông "giáo sư" than thở rằng: “ hầu như chưa thấy bất kỳ nước nào thiết kế đường tàu kỳ quái như ở ta”.

Thì đây, xin hầu "giáo sư" - cong và cớn:



Mumbai



Dubai

Las Vegas


Sydney


Melbourne



Sydney

Sydney

Sydney

South Korea

India

Tokyo

Bổ sung:
1. Tham khảo giá:
Tuyến metro Bến Thành – Suối Tiên: khoảng 2.000 tỷ VNĐ/km, (có khoảng 2.6km đi ngầm từ Bến Thành đến Ba Son, 3 ga ngầm, 11 ga nổi)

Tuyến metro Nhổn – Ga Hà Nội: 2.600 tỷ VNĐ/ km (có 4 km đi ngầm, 4 ga ngầm, 11 ga nổi).
Tuyến metro Cát Linh - Hà Đông: 1.400 tỷ VNĐ/km (11 ga nổi)

Lưu ý càng đi ngầm, càng lắm ga càng đắt.

Suất đầu tư một số tuyến metro tiêu biểu trong khu vực
Đơn vị: Triệu USD/km. Nguồn: BQL Đường sắt đô thị TP HCM

Tuyến đường
Năm hoàn thành
Suất đầu tư
Đặc điểm

Thượng Hải
1999
91
Vận tải lớn, ngầm 100%

Cao Hùng
1999
140
Vận tải lớn, ngầm 85%

Đông - Bắc Singapore
1998
150
Vận tải lớn, ngầm 100%

Tây Hong Kong
1999
220
Vận tải lớn, ngầm 38%

Manila 3
1999
50
Vận tải nhẹ, đi trên cao

Bangkok
1999
73,6
Đi trên cao

Bangkok
1999
139
Đi ngầm toàn bộ.

2. Tham khảo bài của Chung Nguyen đã đăng trên báo Thanh niên, ở trên đã dẫn link nhưng bị lỗi, dưới đây chép lại từ facebook của chung-nguyen

TẠI SAO ĐƯỜNG SẮT LẠI NHẤP NHÔ?
25 Tháng 6 2015 lúc 5:23
Mỗi khi bạn đọc báo Dân Trí, và thấy báo đặt câu hỏi gì đó liên quan đến kỹ thuật, hãy chửi thề một câu rồi đọc tiếp vì đằng nào khi đọc xong bạn cũng sẽ phải chửi thôi. Nên chăng ta yêu cầu tòa soạn này tuyển phóng viên ít nhất có trình độ trung học cơ sở trở lên?

Câu hỏi đây: Tại sao đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông uốn lượn mấp mô?

http://dantri.com.vn/su-kien/tai-sao-duong-sat-do-thi-cat-linh-ha-dong-uon-luon-map-mo-1089582.htm

Tôi trả lời luôn, cho nó đẹp đấy, có sao không?

Đường sắt nhấp nhô là một phát minh ra đời từ thế kỷ 19, năm 1832 Richard Badnall đã xin cấp pa tăng cho sáng chế này. Ưu điểm của nó là hiển nhiên: tiết kiệm năng lượng cho đầu tầu hỏa vì thời kỳ đó người ta vẫn còn đang dùng đầu máy hơi nước. Ngoài ra, đường sắt nhấp nhô còn có một ưu thế tuyệt vời nữa đó là tăng hiệu suất tạm thời của động cơ mà không cần một bánh đà khổng lồ để lưu trữ năng lượng, nên nó được áp dụng rộng rãi trong các tuyến đường sắt cần mô men quán tính lớn để leo dốc đồi núi, trước một đoạn lên dốc luôn là một đoạn xuống dốc để lấy đà, thiết kế chung là như vậy.


Diễn giải sáng chế đường sắt nhấp nhô của Richard Badnall

Nguyên lý thế này, khi bạn treo một quả rọi bằng một sợi dây buộc cố định tại điểm z (hình bên trái), kéo vuông góc từ đường trực giao với điểm a, và thả nó ra, nó sẽ rơi tới điểm b do trọng lực, nhưng trong quá trình rơi, nó nhận được nhiều xung lượng và sẽ chạy tới tận điểm c. Tương tự với đường sắt nhấp nhô (hình bên phải).




Tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông dài 13,05 km với 12 ga, điều này đồng nghĩa với việc mỗi ga chỉ cách nhau hơn 1km, đứng ở ga này có thể nhìn thấy ga kia nếu không vướng vật cản, cho nên việc tuyến đường sắt này uốn lượn cong cong như con Rồng thời Lý là đương nhiên. Tàu rời ga lao xuống dốc tận dụng đà để tiết kiệm năng lượng, tàu tới ga lên dốc để giảm quán tính và tăng an toàn khi phanh, hay các bạn thích bất chấp hết xây thẳng tắp như cẳng Ngọc Trinh để lượng điện tiêu thụ của tàu tăng gấp đôi và tính an toàn giảm còn một nửa?


Tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông có khoảng cách các ga ngắn nên không được thiết kế chạy với tốc độ quá cao mà cần tiết kiệm nhiên liệu và an toàn do được xây dựng trong thành phố và tần suất sử dụng lớn.

Ở một nước nhiệt đới nóng ẩm gió mùa như Việt Nam, đường sắt nhấp nhô còn có một ưu điểm nữa đó là hạn chế sự giãn nở của đường ray và cả dầm cầu tương tự như những tấm tôn thép lợp nhà, giúp tăng tuổi thọ công trình và an toàn trong vận hành.

Đường sắt nhấp nhô ở Đài Loan, địa hình và khí hậu của hòn đảo này có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.

Về mặt kỹ thuật xây dựng, các bạn nên hiểu rằng xây một đoạn đường sắt trên cao thẳng tắp thì dễ hơn, rẻ hơn, tiết kiệm vật liệu và nhân công hơn là xây nhấp nhô, nó khó từ làm cốt thép, ghép cốp pha, đổ bê tông và thi công ray sắt, nếu không phải do thiết kế như vậy, nhà thầu không rỗi hơi làm nhấp nhô cho các bạn đâu.

Ảnh đường sắt đô thị nhấp nhô hiện đại bậc nhất thế giới ở Dubai, nó thậm chí còn nhấp nhô hơn cả mái tóc bồng bềnh của Công Phượng nên đừng quá lo lắng về tính an toàn, họ phát triển đi trước nước ta cả thế kỷ đấy.



Bài vác về từ đây http://locliec.blogspot.com/2015/07/cong-va-con.html. Tít tôi rít lại như thường lệ, hế hế...

Ở LỪA, MỌI NGƯỜI ĐỀU LÀ PHÁN QUAN.

$
0
0


Bài biên của anh Hải Lý, từ Canada. Tôi dẫn về đây để bọn con bò thẩm thấu hòng " hoạt huyết dưỡng não". Và trong một chừng mực nào đó, cũng là những điều mà tôi rất " tâm tư". hừ hừ...

Và như thói thường, tít tôi lại lôi trong quần ra, hã hã...

***

Vậy là chỉ vài ngày sau vụ thảm sát gia đình sáu người ở Bình Phước, hai nghi phạm Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến đã bị bắt. Bộ Công an tuyên bố chắc nịch: “Với tài liệu chứng cứ thu thập được và lời khai nhận tội của các nghi can, cơ quan điều tra có đủ căn cứ khẳng định Dương và Tiến đã gây ra vụ giết người, cướp tài sản đặc biệt nghiêm trọng”.

Và mặc dù công an vẫn dùng từ nghi can để chỉ Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến, nhưng cách nói của họ đã khẳng định rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, Dương và Tiến chính là hung thủ của vụ án. Dù vậy, bài viết này của tôi không bàn về chuyện công an nói thế này hay nói thế kia, hay các chi tiết liên quan đến vụ án. Tôi chỉ muốn trình bày về các trình tự luật pháp tối thiểu mà mọi người cần nên hiểu rõ trước khi đưa ra phán xét là một người nào đó có hay không có tội.

I.


Một bộ phận dư luận Việt Nam đã như lên đồng trong cơn hả hê sung sướng khi họ được biết Dương và Tiến bị bắt. Tôi không hiểu họ đã say men gì, chỉ biết là trong cơn say có phần điên loạn đó dường như họ đã quên mất hai từ nghi phạm và chụp ngay chiếc mũ hung thủ (hoặc phạm nhân) lên Dương và Tiến.

Bất kể hai nghi phạm này đã được đưa ra tòa xét xử công khai và bị phán tội chưa. Bất kể các tình tiết của vụ án được phía công an đưa ra có nhiều điểm bất hợp lý hoặc chưa được giải thích thỏa đáng. Bất kể một nguyên tắc toàn cầu áp dụng cho tất cả mọi người: innocent until proven guilty (vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội). Lưu ý: nguyên tắc này đã được ghi rõ trong mục 11 của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.

Lý do họ hay dùng nhất là: Nếu không có tội thì ngu gì phải nhận!

Trước hết, phải nói rõ đây là một ngộ nhận vô cùng sai lầm của rất nhiều người. Dĩ nhiên, trong tình huống bình thường thì một con người (dù có tội hay không) sẽ hiếm khi nào chịu nhận tội. Nhưng lịch sử luật pháp của nhiều nước trên thế giới đã chứng minh: trong quá trình hỏi cung của cảnh sát, một người vẫn có thể nhận tội mà mình chưa bao giờ thực hiện!

Như trường hợp của Eddie James Lowery (Mỹ).

Lowery bị buộc tội cưỡng hiếp một phụ nữ lớn tuổi vào một ngày tháng 7-1981. Bằng chứng bất lợi duy nhất cho Lowery là ông (lúc đó chỉ mới 22 tuổi) đã nhận tội danh cưỡng hiếp với cảnh sát, mặc dù không có các bằng chứng cụ thể nào khác chứng minh ông đã thực hiện hành vi tội ác đó. Vậy thì tại sao Lowery nhận tội?

Vào buổi sáng của ngày xảy ra vụ án, Lowery vướng vào một vụ tai nạn giao thông gần nơi nhà của nạn nhân. Cảnh sát bắt đầu hỏi cung ông ngay sáng hôm đó. Quá trình hỏi cung kéo dài cả ngày; Lowery không được cho ăn, và khi hỏi về tìm một luật sư đại diện thì được cảnh sát trả lời là không cần thiết.


Eddie James Lowery

Quá trình hỏi cung dần dần biến thành một quá trình “mớm cung:” qua đó, cảnh sát không ngừng đưa ra những chi tiết cụ thể liên quan đến vụ án như là ngôi nhà của nạn nhân, cách hung phạm đột nhập vào nhà, hung khí, và cuộc cưỡng hiếp. Trong tình trạng đói lả, căng thẳng, hoang mang cực độ, trong tình trạng khi mà các dây thần kinh sắp đứt ra, Lowery đã nói một điều mà cảnh sát đang rất muốn nghe: ông nhận tội. Bản nhận tội của ông có đầy đủ các chi tiết của vụ án mà ông vừa nghe được từ phía cảnh sát.

Lời nhận tội đã đưa Eddie James Lowery đến với bản án từ 11 năm tù giam cho đến chung thân. Sau 9 năm tù, Lowery được trả tự do sớm nhưng vẫn phải chịu tội cưỡng hiếp. Cùng với luật sư của mình, Lowery đã ra sức tranh đấu để được làm kiểm nghiệm DNA, và từ đó so sánh với bằng chứng sinh học mà hung thủ đã để lại. Kết quả khám nghiệm DNA chứng min Lowery vô tội; ông được rửa sạch tất cả mọi tội danh và được chính phủ bồi thường 7,5 triệu đô-la cho những mất mát của mình.

Trường hợp của Eddie James Lowery là một trong rất nhiều trường hợp của oan sai khi phán quyết của tòa án chỉ dựa vào lời nhận tội của nghi phạm. Cảnh sát, đôi khi vì áp lực phá án quá lớn, phải dùng đến những trình tự bất hợp pháp như mớm cung, tra tấn, hoặc dùng các biện pháp tâm lý để ảnh hưởng đến suy nghĩ của nghi phạm. Nạn nhân của các án oan sai thường là những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết về các quyền lợi của mình, những người bị chứng trí óc chậm phát triển hoặc những người không có luật sư đại diện trong quá trình hỏi cung.

Như thế, lối suy nghĩ “nếu không có tội thì ngu gì phải nhận” là một lối suy nghĩ cực kỳ đơn giản - nhưng đấy chỉ là lối nói đẹp. Thực tế hơn, công an rất thích lối suy nghĩ này vì họ có thể xỏ mũi và dẫn dắt dư luận đi vào chiều hướng mà họ mong muốn. Áp lực của dư luận sẽ dễ dàng khiến cho bồi thẩm đoàn (hoặc có khi cả quan tòa) đưa ra quyết định khiến một kẻ vô tội phải lên ghế điện, ra pháp trường, hoặc tàn đời trong nhà giam.

II.

Một điều chúng ta nên nhớ là lời nhận tội của nghi phạm trước cơ quan điều tra chỉ được xem là một bằng chứng quan trọng ở trước tòa, không hơn không kém. Nó không có nghĩa là nghi phạm có tội hay nghi phạm chính là hung thủ gây án. Nó cũng như bao nhiêu bằng chứng khác, có thể bị quan tòa phủ nhận nếu ông ta cho rằng cảnh sát đã dùng trình tự bất hợp pháp để lấy được nó.

Nghi phạm có tội hay không là từ phán quyết của quan tòa chứ không phải là vì cảnh sát nói này nói kia, hoặc trưng ra bằng chứng này bằng chứng kia. Nếu cảnh sát có thẩm quyền phán quyết người nào có tội hay không thì ta nên dẹp quách cái gọi là tòa án luôn đi cho nó gọn, và cũng chẳng cần đến luật sư để làm gì!

Bức giản đồ sau đây có thể khiến chúng ta hiểu rõ hơn về toàn bộ quá trình của một vụ án (hình sự) kể từ khi báo án, nghi phạm bị bắt giữ, và cho đến khi kết thúc phiên tòa xử án.



Như vậy, quá trình quyết định một nghi phạm có tội hay không phải đi qua nhiều bước. Từ việc cảnh sát điều tra, quyết định có khởi tố nghi phạm hay không, đưa quyết định khởi tố lên công tố viện và nơi đây sẽ xem xét có nên truy tố nghi phạm hay không, v.v... cho đến phán quyết của tòa án, là những bước cần thiết để quyết định tội trạng của một người.

Hơn nữa, trong phiên tòa, công tố viện phải chứng minh nghi phạm là kẻ có tội beyond reasonble doubt (không còn nghi ngờ hợp lý gì nữa) nếu muốn thuyết phục quan tòa (hoặc bồi thẩm đoàn) về luận điểm của mình.

Ít nhất, một bản án công minh cần phải được đi qua những trình tự như thế.

Một bộ phận (tôi hy vọng là chỉ một bộ phận) của dư luận Việt Nam trong những ngày vừa qua, khôi hài thay, lại chồm chồm nhảy lên ghế quan tòa ngay từ bước thứ hai của vụ án (dựa theo hình trên) - lúc mọi việc vẫn còn đang trong vòng điều tra và công an chỉ mới bắt giữ hai nghi phạm cùng một số lời khai và vật chứng.

Giữa bao nhiêu là hỏa mù, bao nhiêu là trùng trùng nghi vấn, thế mà một đám đông vẫn có thể hả hê lên tiếng một cách chắc nịch, nặng thì đòi băm vằm hai kẻ ác ôn kia ra thành trăm mảnh, nhẹ thì “công lý đã được thực thi, ác giả ác báo!”. Có quan (tòa) còn thở phào nhẹ nhõm: “May quá, chúng nó đã hơn 18 rồi!” (ý nói là đã đủ tuổi lên ghế điện hoặc ra pháp trường!).

Thưa các vị quan tòa (mới nhậm chức):

Các vị cứ việc phán tội theo ý thích. Nhưng, tôi chỉ xin các vị một chữ “nhưng” rất nhỏ này, là các vị chừa cho một khả năng là có thể Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến vô tội, trước khi có phán quyết chính thức của tòa án.

Xin nói rõ là tôi không hề có ý biện hộ cho Dương và Tiến hoặc tôi không hề nói Dương và Tiến vô tội. Điều quan trọng là (sau này) dù có bị phán quyết có tội hay vô tội, ngay bây giờ họ nên được hưởng những trình tự luật pháp công minh và công bằng.

Những trường hợp án oan sai như Nguyễn Thanh Chấn, hay có rất nhiều dấu hiệu là có khả năng oan sai như các tử tù Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, v.v… vẫn còn là tấm gương sờ sờ trước mắt, không lẽ như thế vẫn không đủ để các vị quan tòa bình tâm lại mà suy nghĩ khác đi dù chỉ là một giây?

Kính chúc các quan một ngày vui vẻ, đầu óc minh mẫn cho vụ án này (và các vụ tiếp theo)!

MIẾU TÌNH YÊU BẤT TỬ.

$
0
0



Địt cụ con Bín bần nông chế chuyện cổ hay vãi bườm. Nhìn cái ảnh cỏn cõng bà ra thăm miếu mà điếu dịn được cười bởi cái nhẽ hiếu đễ nó chẳng bao giờ song hành với sự láo khoét hay nham nhở của cỏn. Cỏn tịt mũi và ngọng bẩm sinh nên tôi có thông xoang và nắn lại yết hầu tí chút. Nay bốt hầu các anh chị.

***

Ngày xửa ngày xưa, ở xứ sở hình rươi, làng nọ có hai người yêu nhau tha thiết. Cô gái tên gì đó, nhưng cô có hàm răng tuyệt đẹp, đen nhưng-nhức ( thời đó mốt liền bà xứ đó là nhuộm răng có màu đen khỏi phải oánh răng đỡ tốn ) và đều tăm-tắp. Mọi người gọi cô là nàng răng đẹp.


Chàng trai và nàng răng đẹp yêu nhau lắm, họ thề bồi, buộc chỉ cổ tay nguyện sẽ sống chết bên nhau... suốt cả cuộc đời này.

Đời tưởng chả có gì đẹp hơn, họ ước hẹn ngày cưới. Hai gia đình gặp nhau, tay bắt mặt mừng, cả làng hoan hỉ cho đôi uyên ương trai tài và gái răng đen nhưng-nhức.

Một buổi sáng, đôi nam thanh nữ tú đó đi dạo dưới lũy tre ở triền đê, thấy bên kia sông có một cái chùa, họ bèn bảo nhau sang cúng bái, để cầu giời cho tình yêu đẹp mãi.

Nói là làm, đôi trai tài - gái răng đen nhưng - nhức thuê một con đò, chèo sang với chuối oản hương, cầu duyên cầu tài cầu lộc, hoan hỉ vô cùng, nhẽ không cần tả.

Lượt về, gió máy thế nào, nước tràn vào thuyền, anh lái đò cuống quá làm đò tròng trành. Thế là đò chìm ngỉm, anh lái liệu sức mình có hạn, bơi một mạch vào bờ, kệ mẹ đôi uyên ương.

Chỉ còn chàng trai và cô gái bơi lóp - ngóp. Chàng bơi rất kém, cô răng đen nhưng - nhức không biết bơi, cô bám chặt anh. Cả hai khả năng cao chầu Hà bá, há há...

Thì ko nói nhiều, chàng túm tóc cô chửi : " buông con mẹ mày ra" và đấm cô một cú cực mạnh vào mồm, gẫy hoàn toàn hàm răng đen nhưng - nhức. Cô phải buông anh ra. Chàng trai quả cảm bơi một mạch vào bờ, lăn ra vệ sông thở hồng hộc.

Cô gái đã từng có tên răng đen nhưng -nhức, may thay, vớ được cây chuối, cô cũng bơi được vào bờ, sờ hàm răng, thở dài, rồi nằm vật ra.

Khi tỉnh lại, họ nhìn nhau không nói lên lời, rồi mỗi người đi một ngả.

Hôn lễ của họ bị hủy, cô gái mất hàm răng, mất luôn cái tên đẹp "nàng răng đen nhưng nhức".

Chàng trai bị dân làng cười chê vì bỏ cô giữa dòng. Chàng thanh minh" cứu cái đầu buồi bố đây này, cứu thì cả hai cùng chết nhe mẹ mài răng ra rồi" .

Hai người, cô lấy chồng làng bên, chàng lấy vợ xóm bãi, sinh con đẻ cái rồi chết già. Nhớ mối tình đằm thắm, dân chôn họ cạnh nhau và lập miếu thờ, đặt tên miếu là "miếu tình yêu bất tử".

Mỗi lần về quê, tôi lại ra thăm miếu, và nhớ về cô gái đã từng có hàm răng đen nhưng - nhức.

Hết mẹ chiện cổ "miếu tình yêu bất tử".

TRẺ CON KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÓ???

$
0
0


1- Thịt chó.

Trước khi Dự thảo điều lệ trường tiểu học, trong đó có chức danh “Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng tự quản” được đưa ra để lấy ý kiến, thì từ năm 2012, mô hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) đã được triển khai.

Mô hình VNEN lấy trung tâm là học sinh tiểu học và mọi phần tử xung quanh đều hướng đến việc kích thích tính độc lập và sáng tạo của trẻ em.

Dự án này do Quỹ hỗ trợ toàn cầu về giáo dục của Liên Hiệp Quốc tài trợ không hoàn lại (84,6 triệu USD giai đoạn 2011-2015). Trên thực tế, mô hình VNEN đã được triển khai từ năm học 2012 - 2013 ở 1.447 trường tiểu học thuộc 63 tỉnh, thành phố, trong đó chủ yếu là các trường ở vùng khó khăn, đến nay đã nhân rộng thí điểm ở 2.500 trường tiểu học, trong đó có 1.039 trường tự nguyện áp dụng.



Tuy vậy, hiện đang có những luồng ý kiến khác nhau về các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng tự quản trong một lớp tiểu học.

Có người cho rằng đó là việc không thiết thực, “thừa giấy vẽ voi”, bắt trẻ con ganh đua chức tước từ sớm.

Rồi do bản thân người lớn thấy các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch có quyền hành lớn, rất là “oai” nên sợ các cháu có thể bị nhiễm tư tưởng tự mãn, tự cao tự đại vì “những chức danh cứng cỏi vô hồn ấy".

Có người còn hình dung ra chuyện “chủ tịch ỉa đùn” để dèm pha. Riêng ông giáo Sử đang đang đòi dịch ngược hai chữ "chủ tịch" thành "tổng thống"để xin can.

Chưa thấy ai thắc mắc về chuyện khác, chẳng hạn mối quan hệ truyền thống giữa giáo viên - học sinh có bị phá vỡ không, khi thay vào đó là Hội đồng tự quản.

Tựu trung, các phản ứng cũng chỉ xoay quanh chuyện chữ nghĩa, “chủ tịch” hay là “lớp trưởng”, những người phản đối cho rằng chức “chủ tịch” với học sinh tiểu học thì “oai” và “quan cách” quá và ... nên cấm.

Trẻ con, tốt nhất là đừng có ăn thịt chó (?).

2- Lớp trưởng hay "lớp choảng"?

Ngày còn bé đi học, lần đầu tiên mình biết đến bạn lớp trưởng là năm học lớp Hai (lớp Một trốn không học). Nhờ cô giáo lớp Hai phân công mà bạn này trở thành một lớp trưởng “chuyên nghiệp”, bắt đầu từ năm 8 tuổi. Bạn làm lớp trưởng luôn đến ba năm, sau mình đi sơ tán bom Mỹ đợt 2 về học lại cấp ba với nhau, thì vẫn bạn ấy làm lớp trưởng, lại kiêm bí thư chi đoàn. Quyền lớn lắm, bạn ấy có quyền xem xét kết nạp đoàn viên. Mà hồi ấy, nếu không phải là đoàn viên thì đừng có thi vào đại học cho mất công.

Sau này đi làm, gặp nhau, bạn dẫn mình ra phố Cấm Chỉ uống rượu. Tự bạn buồn buồn nhắc chuyện cũ, ân hận vì đã quá khắt khe trong việc kết nạp đoàn một bạn khác trong lớp (mình thuộc loại “thanh niên chậm tiến” được hưởng “ân huệ” vào năm cuối). Còn mình thì thương bạn những lúc bạn đứng trước lớp, móm mém nửa mếu nửa cười vì bạn bản tính nghịch như quỷ sứ, mà vẫn phải cố ém nụ cười phía sau cái áo cán bộ lớp nghiêm trang và quá khổ, mà thương thay, những ngần ấy năm. Cũng chả hỏi sau này, học đại học, bạn có được (hay bị) làm lớp trưởng nữa hay không.

3- Bây giờ thì sao?

Mới cách đây chưa tới nửa năm, tại trường Lý Tự Trọng, Trà Vinh, bạn lớp trưởng một lớp Bẩy chỉ đạo 18 bạn trong lớp dùng ghế đánh một bạn khác, lý do rất đơn giản là do “nó không nghe lời của lớp trưởng” (bắt đi mua đồ ăn). Sau khi đánh bạn xong, bạn lớp trưởng còn tiếp tục hăm dọa nên nạn nhân không dám hé môi kể lại sự việc với thầy cô và gia đình. Sự việc chỉ được phát giác hơn hai tháng sau, khi một clip do một học sinh khác quay phim và đưa lên mạng.


Như vậy, từ trước tới giờ, chức vụ “lớp trưởng” không những vừa “oai” mà vừa còn có tiềm năng trở thành nhà “độc tài”, dẫu có thể là do ý thức chưa đủ độ chín.

4- Chủ tịch hay chủ xị?

Ở miền Tây, nơi dòng chảy văn hóa dân dã Việt, Miên, Hoa giao hòa tới cả bàn nhậu, trong cuộc uống xoay tua, bao giờ cũng có một người giữ chức “chủ xị”. Ông/bà này cầm chai, rót rượu chuyền đến từng người và tất nhiên không được phép “quên mình”.

Chức “chủ xị” có khi được cử (do uy tín hoặc tuổi tác) và cũng có khi được bầu tại chỗ, với nhiệm vụ điều hành cuộc nhậu đảm bảo tính dân chủ. Vì thế, "chủ xị" phải trước hết là người “chịu chơi”, biết phân phối công bằng, biết thưởng phạt phân minh, lại phải biết giải quyết khiếu nại. Có khi “chủ xị” phải uống đỡ cho người tửu lượng kém hơn, vậy mà nếu rót không đều hoặc lỡ ăn gian bị bắt thì “chủ xị” sẽ bị mọi người “phạt”, nặng hơn thì bị truất quyền tại chỗ, người khác lên thay.

Xem ra, đó là một tập tục dân dã rất xứng đáng được bảo tồn và nhân rộng.
Có người bảo chữ “xị” có nguồn gốc từ cái chai “xá xị” (một loại nước ngọt) có dung tích khoảng 0,25 lít mà ra.

Nhưng không hẳn như vậy, chức “chủ xị” trong tiệc nhậu miền Tây chính là chức “chủ chiếu”, vì ngày xưa dân ta thường tổ chức tiệc tùng trên chiếu, chứ không trên bàn ăn như bây giờ.

“Chủ chiếu”, gọi một cách trang trọng thì là “chủ tịch” (vì “tịch” có nghĩa là cái chiếu, chữ Hán). Chữ “chủ tịch”, người Hoa họ phát âm là “chủ xị” hoặc "chủ xỉ" (zhủ xí). Vì thế trên chiếu nhậu mới có ông "chủ xị".

Với mô hình VNEN, Hội đồng tự quản là một tổ chức của học sinh, vì học sinh, do học sinh bầu ra, nó là một công cụ để các em thực hiện tự quản. Nó giảm đi tính ỷ lại và tăng cường tính tự chủ cho các em, thế thôi.

Điều quan trọng, là nó hướng các em tiếp cận với khái niệm “dân chủ”.

Bạn muốn được làm “chủ tịch” ư? Đầu tiên, bạn phải có uy tín, tức là phải giỏi hơn tớ - đó là việc riêng, rồi bạn lại phải giỏi lo việc chung cho cả lớp, bạn phải thuyết phục chúng tớ bằng “cương lĩnh hoạt động” và bạn lại phải biết diễn thuyết trước đám đông trong lớp.

Bạn hứa rồi nhé, hè năm nay cả lớp đi tham quan Hạ Long, bạn thắng cử là nhờ bạn có bà ngoại ở đó.

Rồi sau đó bạn phải khởi động cả hệ thống từ thầy cô cho đến các bố các mẹ, họ sẽ thực hiện đề xuất của chúng ta.

Bạn phải chủ động mọi việc còn cô chỉ là cố vấn thôi.

Năm nay, bạn làm chủ tịch và sang năm hoàn toàn có thể đến lượt tớ hay ai đó làm chủ tịch.

Như vậy hai chữ “chủ tịch” thì có gì gọi là “oai quá” và vì thế, chả có lý do gì để bắt con cháu chúng ta phải “kiêng khem”?

Về hai chữ "chủ xị", hồi bé, kẻ viết bài này đã từng “Mao chủ xỉ oan xây”để xin huy hiệu phục vụ cho sự nghiệp đánh đáo và khi đó, người cho là các tôồng chí bạn vẫn định khuyến mãi thêm cả cuốn “Mao chủ xỉ ỉa lu”, tức là cuốn bìa đỏ “Mao chủ tịch ngữ lục” (tên gọi khác là Trước tác Mao Trạch Đông).

Đã ỉa đùn thì “lớp trưởng” hay “chủ tịch” cũng cứ ỉa đùn, có sao đâu. Đấy, “Mao chủ xị” cũng “ỉa lu” kia kìa.

Và hãy nhìn những người đã và đang lãnh đạo nước Mỹ, chẳng phải họ đã được rèn luyện để có năng lực hoạt động cộng đồng từ lúc còn là trẻ con, biết tự tin và biết dẫn dắt, bắt đầu từ cái đám "ỉa đùn" quanh mình?

Những ai còn sợ hãi hai chữ “chủ tịch” thì hãy hiểu đơn giản, nghĩa của nó chỉ là “chủ chiếu”, còn không thì cứ gọi các cháu là “chủ xị” cho nó bình dân.

Chứ đừng hô khẩu hiệu suông: Trẻ con không được ăn thịt chó!



----------------------

Phụ lục:

Năm 2013, Cố vấn cấp cao về giáo dục của tổ chức USAID (Cơ quan phát triển quốc tế của Hoa Kỳ) ở châu Phi, bà Koli Banik đã có một báo cáo đánh giá tính khả quan về việc triển khai dự án mô hình trường học sáng tạo tại một số trường học ở Việt Nam. Báo cáo này có tên: "Từ Colombia đến Việt Nam: Thành công của một mô hình trường học sáng tạo".

Báo cáo có đoạn viết:
“Hãy để tôi nhấn mạnh một vài phát hiện từ các trường VNEN:

- Học sinh không còn ngồi đối diện với giáo viên và được giảng dạy bởi giáo viên nữa. Giờ đây, các em ngồi theo nhóm 4-6 người ở bàn và giáo viên đi lại thảo luận giữa các nhóm. Mỗi bàn có một học sinh đứng đầu, giúp những học sinh còn lại bắt đầu thảo luận và làm việc nhóm.

- Cách tiếp cận mô hình VNEN giúp thúc đẩy các nhóm nhỏ học tập và giải quyết vấn đề dưới sự giúp đỡ, phát triển thái độ tích cực lâu dài. Chẳng hạn sẽ tác động đến khả năng sáng tạo, sáng kiến, lòng tự trọng, tự chủ, trách nhiệm, kỹ năng truyền thông và xã hội, và sự tự tin.

- Trường học VNEN cố gắng để cung cấp cho trẻ cơ hội học tập nhiều hơn tại trường. Họ tạo cho trẻ em những bức tường đầy màu sắc, giúp trẻ phát huy thành tựu xuất phát trong nội lực và thể hiện điều đó cho công chúng nhìn nhận. Họ mở cửa trường học để cộng đồng cùng tham gia, có các góc cộng đồng trong từng lớp học. Các học sinh trong hội đồng này sẽ tổ chức các cuộc bầu cử, và vì vậy, tất cả học sinh đều có cơ hội trở thành lãnh đạo.

- Cách tiếp cận mô hình VNEN đòi hỏi sự linh động của giáo viên thông qua việc chia sẻ thông tin thường xuyên hơn, đặc biệt là đối với các giáo viên có hiệu suất dạy học thấp.

Lãnh đạo Bộ Giáo dục Việt Nam vui mừng với mô hình VNEN, và tôi tự hào về thành tích ban đầu của nó. Hiện nay, dự án đang thí điểm tài liệu cho 6 cấp lớp học, và cho thấy nó thích hợp với mô hình trường trung học cơ sở. Bộ Giáo dục hy vọng rằng mô hình VNEN sẽ là một phần của chương trình cải cách giáo dục của chính phủ, thay đổi sinh viên Việt Nam trở thành các nhà tư tưởng sáng tạo và chủ động trong tương lai....”

Bài biên của anh Lý, ở đây http://locliec.blogspot.com/2015/07/tre-con-khong-uoc-thit-cho.html

SỐC &ĐỘC # 95

$
0
0


Tắm hồ là rất bị thô
Tắm khô mới đúng bờ - rồ dân chơi.



Hôm nay trời nắng chang chang
Cả nhà em lộn vào làngđi chơi.

Cô gái mở đường

Đúng là trôn đít văn công
Đâu đâu cũng nét tương đồng, hiuhiu...



Chán cuộc cờ của thế gian
Nay thời chơi ván cờ tàn siêu nhân.



Thắng nhiều đế quốc rất to
Nhưng không thắng nổi đống tro cốt tàn.



Nhà tù ta rất nhân văn
Phạm nhân - quản giáo chung chăn " xếp hình".



Mầm non ưu tú nước nhà
Cũng đi ọp - rốt như là tay chuyên.



Nguyên là từ của nước ta
Cựu là chữ của mồ ma cựu thù.



Lên thẳng mà lại nằm đường
Trực thăng khác đéo liệt dương lộn lèo.



Anh hùng mẹ Việt nam ta
Cho con bú cũng rất là... oai phong.



Thằng béo chửi xéo thằng gày:
Đủn xe phải giống hạ chày tân hôn.



Thứ trưởng tên Bùi Văn Ga
Bụng đồng chí giống mả cha bác Hù.



Thần thoại kháng chiến đây rồi
Tên thì có, tuổi chết trôi thiên đàng.



Trăm năm bia đá cũng mòn
Nghìn năm bia đảng vẫn còn trơ trơ.



Nước ta có nền ngoại giao
Vừa chống vừa đỡ vừa gào vừa rên.



Người đàn bà giấu đêm vào trong tóc
Trong cơn mơ tôi dí dái...đi tìm ( xin lỗi ông Hồng Thanh Quang, hehe)



Li vơ phun - Ác xê nôn
Đi xe phải tránh cái nồn nằm trên.



Nghệ thuật quả thật gian nan
Muốn đẹp thì phải có gan bói bù.



Người đâu mà vú rõ to
Làm cho " thằng bé" ho năm phát liền.



Bọn ngu mới phải che lồn
Bọn khôn là phải dập dồn che thân.



Nửa xanh là của các anh
Nửa vàng phần của tanh bành nước non.



Nghe đồn bị quấn băng keo
Thôi thời một kiếp chó mèo nước ta.



Đứng lên lạy cái đéo gì
Bố đạp cho phát thì đi...bằng bòi.

*** 

Nguồn: nhặt trên NET.

TÚC CẦU KÝ ỨC

$
0
0


Nhẽ túc cầu du nhập vào ta theo chân người Pháp chứ tôi cứ đồ rằng An-nam chẳng chơi môn cơ bắp nào như thế cả, hoặc nếu có chăng thì cũng chỉ là khăng - đáo - bi - diều. Với những môn thể thao trí óc như cờ tướng, cờ vua hay cờ vây thì cũng đều mót lại từ Tàu phù và Tây dương cả. Ấy thế mà với cái bản tính thông minh, người xứ ta cũng chế ra vài món rất đặc trưng mà không nơi nào có, tỳ như " ném đá giấu tay", " ngậm máu phun người", " tát nước theo mưa" và " cưa sừng làm nghé". Toàn những thứ trứ danh.

Đêm qua xem trận túc cầu của người Tây dương xứ Ăng - lê với người An-nam ta mà tủi thân quá. Đá đấm đéo gì mà cứ như bị sỉ nhục. Có kẻ lấy điều đó làm hân hoan, có người lại hờn dỗi. Thôi thời hãy coi đó là một trò vui. Mà đã là trò vui thì đôi khi chả quan trọng bằng phát trung tiện. Quán triệt thế nhé!

Tôi thích bóng đá và cả...bóng dâm. Ở vào độ hoa niên cũng nhiều ký ức. Và một trong số đó là thiên này.

***

Năm 1986 tôi tròn mười tuổi. Và để ghi dấu thời khắc chẵn niên đầu đời, ông bố tôi cho phép bám càng lên xóm trên xem nhờ tivi ở nhà ông Xích Quỷ. Cả làng tôi hồi đó, à mà không, cả tổng mới phải, duy nhất mỗi nhà ông có ti vi. Hình thù nó kỳ dị lắm, y cái tủ bích - phê mini, có hai cửa màu cánh gián lùa ra lùa vào rất vui mắt. Đấy là lần đầu tiên tôi thấy cái tivi và lạ hơn nữa là trên đó có một bầy người lũn cũn đang đuổi theo một quả bóng. Bố tôi giảng là người ta đang đá bóng và đó là một trận... bóng đá. Ông Xích Quỷ chêm thêm vào rằng thì là mà ở tận bên Mê-xi-cô, xứ sở rất xa xôi cách ta hằng hà sa số năm đi bộ.

Chỉ có mỗi bố con tôi mới ông Xích Quỷ xem trận bóng đó. Tôi không hiểu gì nhưng thi thoảng thấy hai người hú lên những tiếng cực kỳ man rợ rồi gần như ngay lập tức lại đưa tay lên bóp chặt lấy mồm. Tôi nghe ông Xích Quỷ bảo bố tôi, " chú hô be bé cái mồm thôi không người làng người ta chửi vì cái tội xem mảnh". A, hóa ra họ xem trộm, xem lậu một trận banh, giời ạ. Thế rồi tôi nghe tiếng rào rào trên mái ngói lẫn tiếng lịch bịch ngoài hiên nhà. Ông Xích Quỷ vặn cái nút mé phải cái tivi đánh tách một phát, màn hình tắt phụt. Ông mở cửa ra hè ưỡn ngực chửi "đéo mẹ quân mất dạy, xem cái con cặc ông đây này". Rồi ông trở vào, làu bàu " xong đận bóng banh này nhẽ phải lát lại cái sân, đảo lại cái mái thôi chú ạ". Bố tôi nín thinh đứng dậy bấm đèn bin lấy cái vỏ chăn con công nơi đầu giường ông Xích Quỷ mà giăng kín lên khung cửa sổ. Tôi đoán là phát kiến tránh cho ánh sáng hắt ra ngoài dễ làm cho lũ bần nông phát điên chứ không hẳn nhằm ngăn mớ côn trùng đang vo ve ọ ẹ. Ông Xích Quỷ lại đánh cái tivi tách lên một phát rồi vặn vẹo cái đéo gì bên hông làm cho tiếng ồ à tịnh hẳn. Hai cái đầu lại đâu vào. Tôi lăn mẹ nền đất mà nằm, không quên nhắc ông bố xem xong thì cõng về.

Mùa hè năm 1990 mẹ tôi vét đi 4 tấn thóc, đôi lợn thịt, bòn thêm chỉ vàng đeo mang tai đưa bố tôi mua về một cái tivi Sanyo 14 inh đen trắng. Bố tôi hoan hỉ lắm, tối ngày chỉnh chỉnh vặn vặn, chán đi lại leo cây xoan đầu hồi mà xoay ngược xoay xuôi cái ăng - ten hình xương cá. Mẹ tôi thì buồn ra mặt, chốc chốc lại chửi lậu bố tôi một câu, không ăn thua là nọc mấy anh em ra dọa cắt khẩu phần và quần áo. Nhục không để đâu cho hết. Ấy thế nhưng tối đến là quên tiệt bởi sân nhà tôi bu đặc người, họ tụ bạ đòi xem bóng đá. Nhà tôi bỗng chốc danh giá hẳn ra bởi cái nết dễ tính và tận tình của ông già. Lắm hôm mất điện, đi dạy ông còn đèo cả ắc - quy ra phố huyện thuê xạc để tối còn phục vụ cần lao. Anh em tôi cũng được dịp mà vênh váo, ghét đứa nào là cấm chỉ không cho bén mảng, thi thoảng cũng đứng ra gạ gẫm thu tí tô thuế là những quả ổi, trái bàng. Tôi nhớ mãi cái mùa hè Italia năm ấy.

Hết mùa bóng năm đó tôi có hơi hơi hiểu biết tý luật chơi, thấy nó cũng thú như trò chọi cỏ gà triền đê chiều lộng. Thanh niên làng tôi đua nhau đi vặt trộm bưởi non, phơi lấy một hai nắng cho mềm ra rồi mang sân kho hợp tác đá oang oác. Tôi tham gia vài trận và nhẽ có năng khiếu bẩm sinh nên vờn bóng bưởi dẻo lắm, chia phe ai cũng muốn cất tôi về. Sự nghiệp đang đà thăng tiến thì chấn thương xảy ra khi tôi tung một cú mu lai má. Lạ cái là bóng bưởi nằm im còn cái móng chân cái bay mẹ lên giời. Tôi dưỡng thương mất hơn tháng ròng trong niềm xót xa kiêm căm thù vô hạn của bà mẹ và nỗi áy náy cảm thương của ông bố vô biên.

Cuối mùa hạ, bố tôi thế chó nào lại được đổi phận. Đang từ thân anh giáo búp phát nhảy lên buồng giáo dục huyện nhà làm chân trông coi cấp phát thiết bị. Thì tuyền những sách vở bút chì phấn bảng, thêm cả mấy bộ xương người bằng thạch cao và vài cái ống nghiệm hình cát - tút. Tôi hỏi ông có bóng da không trộm cho một quả. Bố tôi bảo mới nhận kho chửa kiểm. Tôi xin đi kiểm kho cùng nhưng mục đích chính là tăm lấy một em bóng da hú họa.

Giời thương, tôi moi được hẳn hai quả bóng da bẹp hình mũ nồi nơi xó khuất. Bố tôi bảo không phải bóng đá mà là bóng chuyền. Tôi không phân biệt được mà chỉ biết bên trong cái vỏ da là cái đéo gì có vòi phòi ra như xăm xe đạp. Bố tôi giảng đó là cái véc - xi aka ruột bóng, khỏe hơi thì thôi lên, yếu thì phải bơm bằng thiết bị dài như khúc mía gắn khung Phượng Hoàng aka bơm tay xe đạp Tầu. Tôi sướng bẹp đít, nhảy chân sáo mấy cây số tếch về nhà trong niềm vui khôn tả. Và ngay chiều đó tôi điều hẳn anh thợ kèn phường bát âm đầu ngõ phồng mang trợn mắt thổi bóng lên. Làng tôi vui như có hội. Trận cầu khai bóng nơi sân kho chật kín những bần nông, nhi đồng và bô lão. Và kết quả thật đớn đau khi một tráng niên có đôi chân hộ pháp đá đấm thế đéo nào mà cắm thẳng năm ngón vào trái bóng rồi lết đi trong thương cảm và tiếng vỗ tay rạt rào như hội nghị thi đua. Vỡ bóng mà cứ như tôi vỡ bọng vậy. Thật đắng lòng hehehe.

Còn quả thứ hai tôi mang lên trường chơi với chúng bạn chứ không đá ở nhà nữa. Cũng được đâu ba bảy hăm mốt ngày thì vứt bởi cái véc-xi nát bươm hơn bườm chị Dậu. Hết năm đó, tôi lên lớp 10, trường huyện.

Tôi tham gia nhiều trận bóng hồi học cấp 3, đá khá lắm, tuyền tiền đạo cắm mới trung phong lùi hehe.

Lên đại học tôi đá vưỡn khá cơ mà vị trí lại tụt mẹ xuống hàng hậu vệ. Đôi trận lại còn bắt cả gôn, địt mẹ.

Ra trường thì tịnh hẳn bởi gánh nặng mưu sinh níu chặt mất đôi chân tuy thi thoảng vẫn đi chơi vài trận cho vã mồ hôi mà nốc bia cho tiết tháo.

Hôm qua theo chúng bạn đi tìm chút quá vãng xưa, tôi sút quả bóng hình hài y hệt bên xứ Ba Tây. Kết quả là mất giầy. Một chiếc thôi. Bồi hồi đéo chịu.

Ở cái tuổi giầy đi bóng ở lại thì dí dái vào là hơn. Khà khà...

BÚT MÁU

$
0
0

Một tiết mục trong chương trình Khát vọng đoàn tụ - Ảnh: Việt Dũng

Truyện răn dạy dân viết lách được biên bởi Vũ Hạnh. Còn Vũ Hạnh là ai thời anh biết đéo đâu hehe.

***

Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng"được tán thưởng nhất mấy câu:

Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai.

Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương.

May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa.

Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:

- Máu người tanh quá!

Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.

Đến nhà, lậy cậu thưa lên:

- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.

Người cậu giận lắm, bảo rằng:

- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!

Lương Sinh cúi thưa:

- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.

Cậu nói:

- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.

Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ.

Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.

Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:

- Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.

Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.

Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.

Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ.

Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.

Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.

Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:

Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Động biếc, thoáng cười tiên nữ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.

Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:

- Có người ám hại tiểu thơ.

Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.

Đám đông có tiếng thì thào:

- Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.

- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.

- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!

Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.

Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.

Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:

- Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.

Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.

Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.

Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.

Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa.

Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh.

Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.

Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:

- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo?

Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.

Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.

Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:

- Bác khóc thương thân quyến nào vậy?

Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:

- Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.

Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:

- Ông từ đâu mà đến đây:

- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.

Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:

- Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.

Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:

- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?

Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:

- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".

Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:

- Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!

Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

CỨ MỖI ĐỘ THU SANG...

$
0
0


Lại chớm thu rồi đấy. Và để tiễn biệt những ngày hè, giời tuôn " nước mắt" nhiều đến độ thối um cả đất. Nhiều nhân mạng chết không kịp ngáp và người ta đổ tiệt cho giời và oán than trách đất. Ấy nhưng họ đâu biết là họ đã - đang và sẽ tự giết họ đấy thôi. Bằng gì à? Bằng chính sự tham lam và xuẩn ngốc, hỡi loài người hào phóng và thông minh ạ.

Tôi hay nghĩ về đàn bà cả bốn mùa nhưng mùa thu là nghĩ về nhiều nhất. Vì sao ư? Vì tôi thấy mùa này họ đẹp, chỉ đơn giản vậy thôi. Chứ không như mùa đông, áo xống che hết vẻ mĩ miều thanh cao lẫn nét ất ơ nhâng nháo. Mùa hạ thì đàn bà khác gì ninja. Còn mùa xuân ấy à? Gớm, chả khác gì lũ gà vịt nhốt chuồng lạch bạch những phân gio và nhếch nhác. Chứ đâu như mùa thu gom nồng nàn mùa hạ pha loãng vị heo may đầu đông và gánh gồng cả những bảng lãng mù u của xuân thì lún phún. Ấy là chửa kể thêm vị ngọt đôi môi của những mối tình đầu. 

Ấy đấy, đang luận về thời - về tiết tự dưng lại nhắc đến tình yêu làm người rạo rực hẳn. Với một trung niên bù bựa thì tình yêu không còn cao siêu nữa, đôi khi chợt nghĩ còn chẳng bằng phát trung tiện gọi bình minh. Nói thì thối inh ra thế nhưng tôi là kẻ ham yêu và thích rong chơi. Phải cái tội cấm yêu được em nào tre trẻ và rong chơi thời không quá được tiếng cơm sôi và sự  ỉ ôi vợ già. Bởi cái nhẽ đó nên tôi không thích gái trẻ, luận giải nguồn cơn thì tôi đồ rằng là do thịt chúng...tanh. Thế nên cái giống gái ương ương là tôi thích nhất. Các bạn cứ hình dung là đang ăn quả ổi có cùng tính chất nêu trên thời sẽ tỏ tường. Xanh thời chát miệng, chín thời ngập răng hehe. Còn rong chơi thì tôi chửa đi đâu quá tuần giời ngoại trừ đận năm ngoái trong một cơn nhũn não cấp mà đi biền biệt hơn nửa tháng. Đi lâu ngày cũng chả lợi nhuận là mấy bởi về nhà chó chẳng nhận ra và nếu đen thì có khi đít vợ lại vênh ra ngoài ban công hay cửa sổ, hố hố...

Tôi dạo này cứ như đi mây về gió, tuy vẫn tự chủ được bài tiết nhưng lại không tự chủ được về thời gian. Thì đấy nói đâu xa, hôm nọ đi ăn sáng từ lúc 7a.m mà kéo đến tận 12h đêm, vợ khủng bố bằng cách gọi 1080 cú điện thoại tra tấn. Thây kệ. Nhưng đến quả tin nhắn " anh về mà đi đưa ma tôi đi " thì kinh hãi thật sự. Bèn nhắn lại " chờ nhé, còn phải đi...mua hòm". Sáng sớm hôm sau vào đúng giờ ra đi của ngày hôm trước mới về đến nhà đấy. Lý do á? Đơn giản thôi, bởi trại hòm người ta...thiếu gỗ, hố hố. Nhẽ đây là cú đi ăn sáng dài hơi nhất trong lịch sử các ông chồng nước Nam chăng? Hỏi thế cho oách để tiện sánh với cú đi đái cũng đắt giá không kém của một nhi đồng nước nhà trên chuyến bay của hãng hàng không Sorry Airlines. Ấy thế mà chửa kinh bằng hàng xóm nhà tôi, quần đùi ba lỗ đi đổ rác những hơn tháng mới vác mặt về và 9 tháng 10 ngày sau thì cô công nhân vệ sinh đem " rác" là một thằng cu bụ bẫm đến trước nhà đổ lại. May thằng cu chả phải là con chuột chết nên người ta không vứt đi vứt lại nhà nhau sau một màn máu đổ loang chiều. Phàm những hạng người như thế tuyền là dạng trứ danh cả, đếch đùa được.

Lại nhớ cái mùa thu năm nao bị gái kê mông kiễng bẹn nói lời ly biệt bởi thói ăn nói chớt nhả giả cầy nên lòng đau đớn lắm. Tại bởi cái bản tính tôi chả nghiêm túc cái con mẹ gì trong khi gái họ cần những sự đường hoàng và chắc chắn thâm sâu. Phẫn chí nên có phọt được ra mấy dòng thơ, đại loại như vầy:

Gói mùa thu vào lá
Em chia tôi phần hai
Nửa mùa thu còn lại
In lên bóng trang đài.

Nửa em không ở lại
Em bỏ tôi ra đi
Nguyên mùa thu còn đó
Tôi vỡ trái tim phai.

Tim thu không màu máu
Cũng chẳng vàng cúc thơm
Tim thu như tim thai
Đập tình phai vỡ ối.

Sau lời đau bối rối
Là chúng ta li tan
Chút nồng nàn sót lại
Heo may buồn sương mai.

Một mùa thu chưa phai...


Chỉ là cơn cớ vậy thôi chứ ai ngờ đâu thơ lại có chức năng " tiễn trước rước sau"đến thế. Bằng chứng là có một gái mật thư khen ngợi hết lời, rằng thơ hay và rất gợi, nhất là quả " tình phai vỡ ối". Tôi hân hoan lắm nên cũng nhiệt thành đáp trả. Tôi nói rất nhiều về thơ, về tình yêu và lòng trắc ẩn cho gái nghe. Và gái chỉ duy nhất một động thái là nói những lời yêu thương bất diệt. Chúng tôi cứ như một đôi tình nhân chính hiệu, xoắn xuýt lấy nhau trên mạng ảo bao la. Rồi đến một ngày tình cảm đó không thể đầy vơi thêm được nữa, tôi đề nghị với gái một cuộc ọp-lai. Các bạn biết gái trả lời thế nào không? Nguyên văn nhé " chị 60 tuổi rồi, liệu em có thích?" Giời ạ, tình yêu sụp đổ một đống từ bẹn xuống mắt cá chân. Tôi bẻ phím đóng máy chốt cửa bật điều hòa nằm khóc mất ba ngày. Thương thay!

Cứ mỗi độ thu sang
Hoa cúc lại nở vàng
Ngoài vườn hương thơm ngát
Ong bướm bay rộn ràng...

Tôi xin phép lộn vào làng tí chút:))





Viewing all 444 articles
Browse latest View live